Phân biệt hành vi hiệp đoàn (đ. 119), sự ưng thuận, tham khảo ý kiến (đ. 127)

Thứ tư - 26/02/2025 09:49
Phân biệt hành vi hiệp đoàn (đ. 119), sự ưng thuận, tham khảo ý kiến (đ. 127)

J.B. Lê Ngọc Dũng
 
Quyền lãnh đạo trong Hội Thánh Công giáo, theo giáo huấn của Chúa Kitô, là quyền từ trên xuống, như Ngài đã trao quyền chìa khóa Nước Trời cho Thánh Phêrô (Mt 16,13-19). Đồng thời, Giáo hội cũng là một mầu nhiệm thân thể Chúa Kitô, được Thánh Phaolo chỉ dạy; các chi thể hiệp thông (koinoinia) với nhau và với Đầu là Đức Kitô.
Cách thức sống và hành động của Giáo hội, ngay từ đầu đã thể hiện điều này. Tuy các nhà lãnh đạo được quyền cai quản nhưng các ngài cũng luôn phải thể hiện tính hiệp thông với cấp dưới. Về mặt Giáo luật, chúng ta cần phân biệt, có những công việc, vấn đề mà nhà lãnh đạo:
A - Được quyền tự do quyết định.
B- Không được quyền quyết định. Một nhóm hay một hiệp đoàn được luật chỉ định mới có quyền quyết định. Cấp trên được coi là ngang quyền với các thành viên trong nhóm hay trong hiệp đoàn đó.
C - Được quyền quyết định nhưng buộc phải tham khảo ý kiến hay có sự ưng thuận của nhóm người thuộc quyền, thì mới thành sự.
Ở đây xin chỉ phân giải điểm B và C.

1. Hiệp đoàn giải quyết một vấn đề chung, điều 119, 20

Điều 119, 20
… điều gì được đa số tuyệt đối những người hiện diện đồng ý, thì điều ấy có giá trị pháp lý, miễn là đa số những người phải được triệu tập đã hiện diện; nếu sau hai lần bỏ phiếu mà số phiếu vẫn ngang nhau, thì vị chủ toạ có thể dùng phiếu của mình để tiêu huỷ sự ngang phiếu đó;
Vấn đề hay công việc có thể được đặt ra, ví dụ như:
- Có nên xây dựng một nhà nguyện cho hội dòng không?
- Có nên mở rộng hoạt động của hội dòng, thiết lập thêm một cộng đoàn ở địa điểm A không?
Quyết định rằng “Có” hay “Không” cho vấn đề của tập đoàn được thực hiện bằng việc bỏ phiếu bởi một hiệp đoàn có thẩm quyền, ví dụ như Hội đồng dòng sẽ bỏ phiếu quyết định.
Đa số phiếu tuyệt đối có nghĩa là hơn một nữa số phiếu, gọi là quá bán. Ví dụ, Hội đồng dòng được luật riêng cho quyền họp và biểu quyết một vấn đề. Nếu hội đồng có 10 người kể cả Bề trên, thì đa số tuyệt đối là 6 phiếu. Nếu số phiếu ngang nhau 5-5 thì phải bỏ phiếu lần thứ hai. Nếu lần thứ hai vẫn ngang bằng thì vị chủ tọa là Bề trên sẽ bỏ phiếu để tiêu huỷ sự ngang phiếu đó; nghĩa là, lúc đó, Bề trên có quyền quyết định.
Nên lưu ý, trong việc bỏ phiếu này, Bề trên được coi như ngang hàng với những người khác, cũng chỉ có một phiếu ý kiến nghịch hay thuận như những thành viên khác. Nếu sau hai lần bỏ phiếu mà không đạt được đa số tuyệt đối thì Bề trên mới có quyền bỏ phiếu để tiêu huỷ sự ngang phiếu đó (đ.119, 20).

2. Hiệp đoàn giải quyết vấn đề đụng chạm đến từng người, điều 119, 30

Điều 119, 30 Nếu vấn đề đụng chạm (tangit) đến tất cả mọi người như đến từng người, thì phải được mọi người chấp thuận.
Trong trường hợp quyết định chung đó lại “đụng chạm (tangit) đến tất cả mọi người như đến từng người” thì phải được mọi người chấp thuận, chứ không lấy theo đa số tuyệt đối ý kiến, như được nói ở trường hợp của điều 119, 20.
Đụng chạm (tangit) đến từng người, có nghĩa là đụng chạm đến quyền lợi và nghĩa vụ riêng của họ. Ví dụ, Bề trên hay một nhóm nữ tu muốn chuyển đổi cả tu hội, từ tu hội đời (secular institute) sang tu hội dòng (religious institute) thì cần có sự chấp nhận của tất cả mọi thành viên. Nếu có một thành viên nào đó vẫn muốn duy trị tu hội là tu hội đời và bỏ phiếu phủ quyết thì tu hội không được tiến hành thủ tục xin Tòa Thánh cho chuyển đổi sang tu hội dòng.
Quy tắc này bảo đảm quyền lợi riêng của mỗi người. Theo lẽ phải thông thường, rõ ràng là không được phép lấy ý kiến đa số mà tước bỏ quyền lợi của một người nào đó.
Ví dụ, Liên hiệp các hội dòng soạn ra một bản Hiến pháp chung. Cho dù 90% thành viên họp đồng ý sử dụng hiến pháp đó vào Hội dòng của mình thì cũng không được buộc các Hội dòng khác phải áp dụng.
Hoặc tương tự, Hội đồng Giám mục, cũng không có quyền bắt các Giám mục giáo phận phải tuân theo một quy định chung mà đụng chạm đến quyền lợi hợp pháp của mình.

3. Bề trên thực hiện một hành vi mà cần tham khảo hay có sự ưng thuận của cấp thuộc quyền, điều 127 §1

3.1. Nguyên tắc điều 127 §1
Điều 127 §1. Khi luật ấn định rằng, để thực hiện các hành vi, cấp trên cần có sự ưng thuận hay ý kiến của một tập đoàn hoặc của một nhóm người, thì tập đoàn hay nhóm người đó phải được triệu tập chiếu theo quy tắc của điều 166, trừ khi, trong trường hợp chỉ cần hỏi ý kiến, luật địa phương hay luật riêng đã định liệu cách khác; nhưng để các hành vi được hữu hiệu, cấp trên cần phải có sự đồng ý của đa số tuyệt đối những người hiện diện hoặc phải hỏi ý kiến mọi người.
Điều 127 §1 quy định về việc cấp trên phải có sự ưng thuận hay tham khảo ý kiến của nhóm người thuộc quyền (cấp dưới) để thực hiện một hành vi.
Lưu ý, điều 127 §1 này thì khác với điều 119, 20 nói trên, cần phân biệt những điểm chính yếu sau:
Điều 119, 20:
- Quyền: Quyền quyết định hay giải quyết một vấn đề thuộc về nhóm người hay tập đoàn.
- Phiếu: Bề trên cũng bỏ một phiếu như các thành viên khác. Vấn đề sẽ được giải quyết theo ý kiến của đa số tuyệt đối. Chỉ sau hai lần bỏ phiếu mà số phiếu vẫn ngang bằng thì Bề trên có quyền bỏ một phiếu để phá vở sự ngang bằng đó.
Điều 127 §1:
- Quyền: Quyền quyết định hay giải quyết một vấn đề thuộc về Bề trên, nhưng cần có sự đồng ý hay tham khảo ý kiến của nhóm người thuộc quyền.
- Phiếu: Bề trên không bỏ phiếu. Nếu luật đòi sự ưng thuận của nhóm người thuộc quyền, thì cần phải có đa số tuyệt đối phiếu ưng thuận của họ. Nếu số phiếu vẫn ngang bằng thì Bề trên được kể là không có được sự ưng thuận. Bề trên không có quyền bỏ một phiếu để phá vở sự ngang bằng đó. 
(Cf. Câu trả lời của Uỷ ban Giáo hoàng giải thích Giáo luật (GL 127§1) ngày 14-5-1985, được Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II phê chuẩn ngày 5-7-1985 (AAS, tập 77, 1985, tr. 771; Communicationes 1985, tr. 262.
Hoặc xem  chú giải trong J.P. BEAL et alii, New Commentary on the Code of Canon Law, Paulist Press, New York 2000, p.181)

3.2. Bình giải điều 127 §1

3.2.1. Đa số tuyệt đối của nhóm thuộc quyền
Trong trường hợp điều 127 §1 này, Bề trên như là một chủ thể xin được sự ưng thuận của chủ thể khác, tức là của nhóm người thuộc quyền. Luật đòi số phiếu đồng ý của nhóm phải đạt “đa số tuyệt đối”. Nếu không đạt thì kể là không có được sự ưng thuận. Vì nếu số phiếu thuận và chống ngang bằng nhau, tức là không có đa số tuyệt đối.
Nếu Bề trên lại bỏ thêm một phiếu để có sự ưng thuận, thì quy tắc luật đòi “đa số tuyệt đối” của nhóm người thuộc quyền tự nó là hàm hồ, vô lý. Hay nói cách khác, nếu Bề trên được quyền bỏ một phiếu thuận nữa thì luật sẽ không đòi “đa số tuyệt đối” thuận nữa, mà chỉ đòi số phiếu ngang nhau là được.

3.2.2. Về sự hữu hiệu của hành vi

Nếu luật đòi có sự ưng thuận, Bề trên cần tổ chức cuộc họp để lấy ý kiến ưng thuận của nhóm người thuộc quyền. Để có được sự ưng thuận, số phiếu ưng thuận phải chiếm đa số tuyệt đối. Nếu không có sự ưng thuận này, mà Bề trên vẫn cứ hành động thì hành vi của mình bị vô hiệu.
Nếu luật đòi tham khảo ý kiến, Bề trên phải hỏi ý kiến mọi người, không bỏ sót ai. Một người không tham dự họp cũng phải được tham khảo ý kiến. Nếu bỏ qua việc tham khảo ý kiến mọi người Bề trên hành động vô hiệu, mặc dù ngài có quyền không làm theo ý họ.

3.3. Một số điều luật áp dụng nguyên tắc điều 127 §1

Trong Giáo luật có nhiều khoản luật liên quan đến nguyên tắc điều 127 §1, ví dụ như:
Điều 1292 §l. Vẫn giữ nguyên những quy định của điều 638 §3, khi giá trị tài sản chuyển nhượng được dự kiến giữa mức tiền tối thiểu và tối đa, mà Hội Đồng Giám mục phải ấn định cho miền của mình, thì nhà chức trách có thẩm quyền đối với những pháp nhân không thuộc quyền Giám mục giáo phận là người do quy chế riêng chỉ định; còn pháp nhân lệ thuộc Giám mục, nhà chức trách có thẩm quyền là Giám mục giáo phận  cùng với sự ưng thuận của Hội đồng kinh tế và Ban tư vấn, cũng như của những người liên hệ. Chính Giám mục giáo phận cũng cần phải có sự ưng thuận của những người nói trên để chuyển nhượng tài sản của giáo phận.
Điều 272 Giám quản giáo phận không thể ban phép xuất tịch và nhập tịch, cũng không thể ban phép chuyển sang một Giáo hội địa phương khác, trừ khi toà Giám mục đã khuyết vị được một năm và có sự đồng ý của Ban Tư vấn.
Điều 500 §2. Hội đồng linh mục chỉ có quyền tư vấn mà thôi; Giám mục giáo phận phải lắng nghe ý kiến của hội đồng trong những việc rất quan trọng, nhưng chỉ cần sự đồng ý của hội đồng trong những trường hợp mà luật đã minh nhiên ấn định.
Điều 638 §3. Để được hữu hiệu, việc chuyển nhượng và bất cứ việc gì khiến cho tình trạng gia sản của pháp nhân bị thiệt, phải có phép bằng văn bản của Bề trên có thẩm quyền, với sự chấp thuận của ban cố vấn của ngài.
Điều 647 §1. Việc thiết lập di chuyển và giải thể tập viện phải được thực hiện do sắc lệnh bằng văn thư của vị Điều hành tổng quyền của hội dòng, với sự chấp thuận của ban cố vấn của vị này.
Điều 689 §1. Khi mãn hạn giữ lời khấn tạm, nếu có những lý do chính đáng, một thành viên có thể bị Bề trên cấp cao có thẩm quyền loại bỏ không cho khấn tiếp, sau khi đã tham khảo ý kiến của ban cố vấn.
Điều 726 §1. Khi thời gian nhập tạm thời đã mãn, thành viên có thể tự do rời bỏ tu hội, hoặc có thể bị vị Điều hành cấp cao loại ra không cho lặp lại những mối ràng buộc thánh, vì một lý do chính đáng, sau khi đã tham khảo ý kiến của ban cố vấn.
Điều 684 §1. Một thành viên đã khấn trọn đời không thể chuyển từ hội dòng mình sang một hội dòng khác, trừ khi có phép của vị Điều hành tổng quyền của mỗi hội dòng, và được sự chấp thuận của ban cố vấn của mỗi vị.

4. Trường hợp sai lầm điển hình

    4.1. Nữ Đan viện áp dụng Hiến pháp số 166

"Quy luật và Hiến pháp" của nữ đan sĩ cải tổ, được Đức Gioan Phalo II phê chuẩn năm 1991, số 166 có quy định:
Việc cho khấn trọng thể thuộc quyền Bề trên, với sự ưng thuận của Hội đồng đan viện…
Hiến pháp này quy định quyền cho khấn trọng (khấn trọn) “thuộc về Bề trên với sự ưng thuận của Hội đồng đan viện”. Theo Giáo luật, nguyên tắc điều 127 §1 phải được áp dụng ở đây.  
Tuy nhiên, trong thực tế, các nữ đan viện tiến hành việc cho khấn này không theo nguyên tắc điều 127 §1 mà lại theo điều 119, 20.
Theo các nữ tu này, việc bỏ phiếu chấp thuận cho khấn trọng được tiến hành bởi Hội đồng đan viện trong đó có cả Bề trên. Tất cả đều bỏ một phiếu hoặc thuận hoặc chống. Nếu đạt được đa số phiếu tuyệt đối thuận, cho phép khấn thì nữ tu đó được phép khấn trọng. Nếu số phiếu thuận chống ngang nhau, Bề trên bỏ phiếu để phá vở sự ngang bằng, nghĩa là, Bề trên được tùy ý quyết định cho khấn hay không.
Để áp dụng cho đúng Giáo luật, ta cần phải đặt câu hỏi: Quyền cho phép khấn trọng này thuộc về ai?
Hiến pháp quy định: “thuộc về Bề trên với sự ưng thuận của Hội đồng đan viện” (HP 166).
Tuy nhiên, với cách bỏ phiếu nói trên, ta thấy quyền cho khấn thuộc về Hội đồng, chứ không thuộc về Bề trên như Hiến pháp điều 166 quy định.
Để cho rõ hơn, hãy xem hiến pháp điều 224, có quy định về Hội đồng như sau: hợp tác chặc chẻ với Bề trên và có nhiệm vụ thăng tiến sức sống thiêng liêng của cộng đoàn, “bàn về vấn đề và các công việc thuộc thẩm quyền Hội đồng đan viện theo Hiến pháp quy định và giải quyết bằng cách bỏ phiếu kín”. Và điều 225 quy định về bỏ phiếu của Hội đồng:
HP 225
Trừ trường hợp được quy định khác, để quyết định các vấn đề chỉ cần đa số tuyệt đối các phiếu là có giá trị.
Bề trên tham gia đầu phiếu như các chị khác trong đan viện. Trong trường hợp số phiếu phân đôi ngang nhau, Bề trên có thể quyết định nếu là vấn đề đòi được quyết định, trừ những trường hợp bầu cử và nhận ứng sinh vào nhà thử, nhà tập và khấn. Điều này cũng áp dụng cho các cuộc bàn thảo của ban cố vấn, theo luật riêng của Dòng.
Ta thấy rõ ràng là Hiến pháp cũng nói: “trừ ra việc bầu cử và nhận ứng sinh vào nhà thử, nhà tập và khấn”. Tuy nhiên, các nữ tu đan viện nói trên đã không trừ.

4.2. Hiến pháp quy định số thành viên Ban tư vấn là số chẵn !

Có lẽ, một số hội dòng khác cũng lầm lẫn tương tự như nữ đan viện nói trên. Khi có luật đòi Bề trên phải có sự ưng thuận của ban cố vấn để thực hiện một hành vi thì họ bỏ phiếu và nếu số phiếu thuận và chống ngang nhau thì Bề trên sẽ bỏ một phiếu để phá vở sự cân bằng.
Vì nghĩ như vậy, và để dễ dàng có kết quả, một số Hiến pháp của hội dòng quy định ban cố vấn phải gồm số chẳn: 4 hoặc 6 hoặc 8 người.
Nhưng ngược lại, ta thấy nó không dễ dàng, vì sự ưng thuận có được phải là đa số tuyệt đối, nghĩa là phải có ít là 3/1, hoặc 4/2, hoặc 5/3 phiếu thuận thì Bề trên mới được quyền hành động. Với tỷ số đó, Bề trên khó mà đạt được.
Ngược lại, rõ ràng là con số trên nên là số lẽ: 3, 5, 7, 9 để ban tư vấn dễ có sự ưng thuận, với tỷ lệ: 2/1, hoặc 3/2, hoặc 4/3, hoặc 5/4.

Kết luận
Để áp dụng đúng nguyên tắc luật trong vấn đề đang bàn, cần phân biệt nguyên tắc của điều 119, 20 với điều 127 §1.
Trước tiên, cần xác định là ai có quyền thực hiện hành vi hay ra quyết định. Nó thuộc Bề trên hoặc thuộc nhóm người hay tập đoàn.
Nếu quyền  thuộc nhóm người hay tập đoàn thì áp dụng nguyên tắc điều 119, 20. Nếu số phiếu vẫn ngang bằng sau hai lần bỏ phiếu, thì Bề trên bỏ một phiếu để phá vở sự cân bằng đó.
Nếu quyền thuộc Bề trên mà cần có sự ưng thuận hay tham khảo ý kiến những người thuộc quyền mình, thì áp dụng điều 127 §1. Nếu luật đòi sự ưng thuận thì sự ngang bằng phiếu được kể là chưa đủ điều kiện đa số phiếu tuyệt đối, nghĩa là Bề trên không có được sự ưng thuận của nhóm người thuộc quyền. Nếu Bề trên vẫn cứ hành động hành vi của mình sẽ bị vô hiệu.
Nếu quyền thuộc Bề trên mà luật lại không đòi có sự ưng thuận hay tham khảo ý kiến những người thuộc quyền mình, thì Bề trên được tự do hành động.


===============================================================

PHỤ CHÚ
Không cho khấn tiếp
Trong các đan viện Carmel, quyền cho khấn lần đầu, khấn tạm lại và cho khấn trọng đều thuộc Bề trên với sự ưng thuận của Hội đồng đan viện (HP 161, 162, 166). Nếu số phiếu của Hội đồng thuận và chống ngang bằng nhau, Bề trên không có được sự ưng thuận, người nữ tu đó không được khấn lại hay khấn trọng; và như vậy phải bị xuất tu.
Sự xuất tu này cũng có hậu quả pháp lý như sự sa thải. Mà sự sa thải lại cần có những lỗi luật dòng khá rõ. Vì vậy, các thành viên hội đồng cần nghiêm túc đánh giá đối tượng để bỏ phiếu, tránh sự bỏ phiếu theo cảm tính, có thể làm thiệt hại đến quyền lợi người khác.
Nên chú ý, về chuyện không được khấn tiếp, dù tạm hay trọn, đều do kết quả của bầu phiếu của Hội đồng như nói trên, tức là áp dụng Hiến pháp số 162, 166. Không hề có luật bỏ phiếu của Hội đồng để buộc một nữ tu ra khỏi dòng.
Chỉ có trường hợp, vì lý do chính đáng, Bề trên có quyền không cho một nữ tu khấn tạm lại hay khấn trọng sau khi đã tham khảo ý kiến ban cố vấn (HP 193), nhưng cần chú ý:
- Bề trên chỉ tham khảo ý kiến của Ban cố vấn chứ không phải là tham khảo ý kiến hay cần có sự ưng thuận của Hội đồng đan viện.
Lý do chính đáng thường được thấy là những sự thất bại nghiêm trọng của ứng viên trong việc tuân giữ lời khấn và cuộc sống chung trong đức ái. Hiến pháp số 193 này nói thêm lý do bệnh tật thể xác hay tâm thần. 
Nếu thấy phải sa thải một nữ tu vì những lỗi phạm thì phải áp dụng luật về sự sa thải với những thủ tục của nó, chứ không đơn giản là Bề trên lấy quyền mình với sự tham khảo Ban cố vấn để mà sa thải.
 

Tác giả: JB Dũng Lm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

GIAOLUATCONGGIAO.COM

GIỚI THIỆU TRANG GIÁO LUẬT CÔNG GIÁO

Con xin giới thiệu trang Web ;http://giaoluatconggiao.com được thành lập với sự khuyến khích của Đức cha Toma Nguyễn Văn Trâm, Gp. Bà Rịa phụ trách Giáo Luật trong HĐGMVN, Đức cha Giuse Võ Đức Minh Gp Nha Trang. Trang Web được phát kiến và hình thành với các lý do sau: - Trong khóa Bổ Túc...

THỐNG KÊ
  • Đang truy cập8
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm7
  • Hôm nay1,560
  • Tháng hiện tại67,743
  • Tổng lượt truy cập11,376,599
Liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi