Giới thiệu:
Sắc lệnh Secundum Probatum [SP] của Bộ Giáo sĩ về kỷ luật các ý chỉ của Thánh lễ, được Đức Giáo hoàng phê chuẩn ngày 13.04.2025 và có hiệu lực từ ngày 20.4.2025 mở rộng khả năng áp dụng những ý lễ “gộp chung” (collective) trong một Thánh lễ so với Sắc lệnh cũ Mos Iugiter (22.2.1991). Secundum Probatum cho phép áp dụng ý lễ “gộp chung” không giới hạn hai lần trong một tuần. Tuy nhiên có vài điểm khác biệt cần lưu ý:
1. Công đồng hay Hội nghị các Giám mục giáo tỉnh phải ra sắc lệnh áp dụng, trong đó có chỉ dẫn áp dụng như thế nào phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và với điều kiện áp dụng của Sắc lệnh mới Secundum Probatum (x. đ. 1 §1 SP). Nếu Công đồng hoặc Hội nghị của các Giám mục giáo tỉnh không đưa ra quy định gì về vấn đề này thì các quy định của Sắc lệnh Mos Iugiter ngày 22 tháng 2 năm 1991 vẫn có hiệu lực (x. đ. 6 SP).
2. Chỉ trong trường hợp những người dâng lễ vật đã được thông báo đầy đủ và đã bày tỏ sự đồng ý cách rõ ràng, thì tư tế mới có thể áp dụng lễ “gộp chung” các ý lễ. Không ai được phép giả định rằng những người xin đồng ý khi họ không tỏ sự đồng ý rõ ràng. Khi không có sự đồng ý rõ ràng, thì luôn luôn được cho là ý muốn đó đã không được đưa ra (x. đ. 1 §2 SP).
3. Các Đấng Bản quyền cần phải hướng dẫn giáo sĩ và giáo dân của mình về nội dung và ý nghĩa của các chuẩn mực này, và giám sát việc áp dụng đúng đắn các chuẩn mực này . Số lượng Thánh lễ sẽ cử hành, các ý chỉ, các bổng lễ và các cử hành đã diễn ra phải được ghi chép chính xác trong sổ lễ thích hợp, và được Bản quyền trực tiếp hoặc thông qua người khác kiểm tra sổ lễ (x. đ. 4 SP).
Sắc lệnh Secundum Probatum
của Bộ Giáo sĩ về kỷ luật các ý chỉ của Thánh lễ, 13.04.2025
(Chuyển dịch Việt ngữ do Lm. J.B. Lê Ngọc Dũng)
«Secundum probatum Ecclesiae morem, sacerdoti cuilibet Missam celebranti aut concelebranti licei stipem oblatam recipere, ut iuxta certam intentionem Missam applicet»
“Theo thông lệ đã được Giáo hội chuẩn nhận, bất cứ tư tế nào cử hành hoặc đồng tế Thánh lễ cũng có thể nhận một bổng lễ (stips) để áp dụng (applicet) lễ theo một ý chỉ nhất định” (đ. 945 §1 CIC), [CIC: Bộ Giáo luật 1983].
«Bí tích Thánh Thể, mặc dù tạo nên sự sung mãn của đời sống bí tích, không phải là phần thưởng cho những người hoàn hảo nhưng là phương thuốc và lương thực rộng ban cho những người yếu đuối. Những xác tín này cũng có những hiệu quả mục vụ mà chúng ta được kêu gọi cân nhắc một cách thận trọng và táo bạo. Chúng ta thường hành xử như những người kiểm soát ân sủng chứ không phải là những người tạo điều kiện nhận lãnh. Nhưng Giáo hội không phải là một nhà hải quan, mà là nhà của người cha, nơi có chỗ cho mỗi người với cuộc sống khó khăn của họ» [1].
Nhận thức được ân sủng này, các tín hữu mong muốn kết hợp chặt chẽ hơn với Hy tế Thánh Thể qua việc dâng bổng lễ, thêm vào hy lễ của mình và cộng tác vào nhu cầu của Giáo hội, và đặc biệt là góp phần duy trì các thừa tác viên thánh của Giáo hội.
Theo cách này, các tín hữu kết hợp mật thiết hơn với Chúa Kitô, Đấng hiến mình và, theo một nghĩa nào đó, được tháp nhập sâu xa hơn vào sự hiệp thông với Người. Thông lệ này không chỉ được Giáo hội chấp thuận mà còn được Giáo hội thúc đẩy [2].
Thánh Phaolô tông đồ viết rằng, những người phục vụ bàn thờ cũng có quyền sống từ bàn thờ (x. 1 Cr 9,13-14; 1Tm 5,18; Lc 10,7). Các chuẩn mực được thu thập trong những thế kỷ đầu tiên đã cho chúng ta biết về những món quà được dâng hiến tự nguyện trong việc cử hành bí tích Thánh Thể. Trong số này, một phần dành cho người nghèo, một phần dành cho mensa episcopalis (bàn ăn Giám mục) và cho những người được Giám mục tiếp đãi, một phần để thờ phượng và một phần dành cho các giáo sĩ cử hành hoặc trợ giúp, theo một tiêu chuẩn phân phối được thiết lập trước [3].
Những người dâng lễ vật như vậy đã tham gia một cách đặc biệt vào Hy tế Thánh Thể. Những món quà được dâng trong Thánh lễ, và sau đó là bên ngoài Thánh lễ, được coi là phần thưởng cho người ban phát, như một món quà trong dip phục vụ (occasione servitii) chu toàn bởi linh mục, như một quà hảo tâm và không bao giờ là “giá bán” cho một điều gì đó thánh thiêng; điều mà, trên thực tế, sẽ trở thành một hành vi mại thánh.
Vào thời kỳ này, Thánh lễ đã được cử hành, theo yêu cầu của các tín hữu, cho một ý chỉ nhất định, ngay cả khi không kèm theo một món quà. Sau đó, phong tục dâng lễ vật để cử hành Thánh lễ và tặng quà cho tư tế hoặc cho Giáo hội đã phát triển. Thực hành này tạo thành tiền lệ về lễ vật để cử hành Thánh lễ. Từ cuối thế kỷ thứ mười, người ta đã dâng những món quà tưởng niệm (doni commemorative) để yêu cầu cử hành Thánh lễ cho một ý định nhất định. Trong cùng thời kỳ này, thiện quỹ (fondazioni) của Thánh lễ đã nảy sinh, nghĩa là, nghĩa vụ cử hành Thánh lễ cho những ý chỉ có từ trước. Từ đó nảy sinh ra phong tục dâng lễ vật trong Thánh lễ, một thông lệ mà Giáo hội không chỉ chấp thuận mà còn khuyến khích và thúc đẩy.
Phong tục trần thế và kỷ luật của Giáo hội nhấn mạnh rằng mỗi lễ vật riêng lẻ phải tương ứng với việc linh mục áp dụng riêng biệt vào Thánh lễ do ngài cử hành. Hơn nữa, giáo lý Công giáo, cũng được thể hiện qua cảm thức đức tin (sensus fidelium), dạy về lợi ích thiêng liêng và tính hữu dụng, trong nhiệm cục ân sủng, cho những người và mục đích mà linh mục áp dụng Thánh lễ mà ngài cử hành cho, và, trong cùng một viễn cảnh này, giá trị của việc áp dụng được lặp lại cho cùng những người hoặc mục đích.
Về việc áp dụng liên quan đến việc nhận được lễ vật, theo nghĩa nêu trên, lệnh cấm áp dụng một Thánh lễ duy nhất cho nhiều ý chỉ, trong đó nhiều lễ vật tương ứng đã được chấp nhận.
Thực hành này, cũng như việc không áp dụng Thánh lễ liên quan đến lễ vật đã được chấp nhận, đã bị phán quyết là trái với công lý, như đã được nêu nhiều lần trong các văn kiện của Giáo hội [4].
Việc thay thế áp dụng Thánh lễ như đã hứa bằng “ý chỉ cầu nguyện” duy nhất trong khi cử hành Lời Chúa hoặc chỉ nhắc đến một cách đơn giản trong một số khoảnh khắc của buổi cử hành Thánh Thể cũng không kém phần bất hợp pháp.
Kỷ luật của Giáo hội trong vấn đề này, ngay cả khi tách ra khỏi các cuộc thảo luận mang tính chất thần học thuần túy, rõ ràng được lấy cảm hứng từ việc cân nhắc hai trật tự: công bằng đối với người dâng lễ vật, nghĩa là giữ lời đã hứa cho người dâng lễ vật, và bổn phận phải tránh ngay cả vẻ bề ngoài của việc "buôn bán" những điều thánh thiêng (x. đ. 947; 945 §2 CIC).
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, đã xuất hiện những tình huống và yêu cầu, đề xuất điều chỉnh một số kỷ luật riêng, tạo ra ngoại lệ cho luật phổ quát, chính xác là để bảo vệ tất cả những gì là thiết yếu. Trong số đó có tình trạng thiếu giáo sĩ có khả năng đáp ứng các yêu cầu về Thánh lễ, nghĩa vụ không được "làm thất vọng ý muốn đạo đức của những người dâng lễ, làm họ mất đi mục đích tốt đẹp của họ" [5], cùng với nhận xét rằng việc sử dụng cái gọi là Thánh lễ "gộp chung" (collettive), “nếu nó lan rộng quá mức [...] phải được coi là một sự lạm dụng và có thể dần dần tạo ra nơi các tín hữu sự từ bỏ việc dâng bổng lễ để cử hành Thánh lễ theo ý chỉ riêng, làm xóa bỏ một thông lệ rất cổ xưa có lợi cho các linh hồn riêng lẽ và cho toàn thể Giáo hội" [6], tạo thành một số lý do cho những đổi mới.
Trong bối cảnh đó, vào ngày 22 tháng 2 năm 1991, Bộ Giáo sĩ lúc bấy giờ đã ban hành Sắc lệnh Mos Iugiter [7].
Sắc lệnh này, nhắc lại những nền tảng giáo lý và các chuẩn mực kỷ luật cơ bản đã được rút ra từ Bộ Giáo luật, quy định rằng, trong những điều kiện nhất định và chỉ trong những trường hợp như vậy, linh mục có thể áp dụng một Thánh lễ duy nhất cho nhiều ý chỉ liên quan đến những lễ vật riêng biệt mà ngài đã nhận được.
Các điều kiện được đưa ra nhằm mục đích, một mặt, đảm bảo công lý, tức là giữ lời đã hứa với người dâng lễ vật, mặt khác là loại bỏ nguy cơ, hoặc thậm chí chỉ là sự xuất hiện của "việc buôn bán" những điều thánh thiêng.
Chính mong muốn loại trừ mối nguy hiểm này đã cho phép áp dụng những thay đổi kỷ luật như vậy. Cụ thể, theo quan điểm này, Sắc lệnh thiết lập trên hết rằng, chỉ trong trường hợp những người dâng lễ vật đã được thông báo đầy đủ và đã bày tỏ sự đồng ý [sự đồng ý rõ ràng], thì mới có thể thu thập nhiều lễ vật cho một lần cử hành Thánh lễ, và rằng việc cử hành này không phải là hàng ngày, để tránh tạo ra một thông lệ chung và để duy trì tính chất ngoại lệ.
Hơn ba mươi bốn năm đã trôi qua kể từ khi Sắc lệnh Mos Iugiter có hiệu lực, trên cơ sở kinh nghiệm tích lũy được kể từ đó, để đáp lại những quan sát, câu hỏi và yêu cầu nhận được từ nhiều nơi trên thế giới, từ các Giám mục, mà còn từ các thành viên của hàng giáo sĩ, giáo dân và những người và cộng đồng sống đời thánh hiến, Bộ này, sau khi xem xét sâu sắc mọi khía cạnh của vấn đề, và sau khi tham khảo ý kiến rộng rãi với các Bộ liên quan khác, sive ratione materiae sive alia ratione, đã đi đến phán quyết rằng hiện cần có các chuẩn mực mới để điều chỉnh vấn đề, đồng thời điều chỉnh cho phù hợp.
Khi xem xét cơ hội cập nhật nguyên tắc luật và đồng thời làm rõ hơn việc loại trừ một số hành vi đã được thực hiện một cách lạm dụng ở nhiều nơi, Bộ này đã ra lệnh ban hành và hiện đang ban hành các điều khoản sau đây, tích hợp với luật hiện đang có hiệu lực về vấn đề này:
Điều 1
§1. Vẫn giữ nguyên điều 945 CIC, nếu Công đồng giáo tỉnh hay Hội nghị Giám mục giáo tỉnh, có tính đến các điều kiện như là, ví dụ, số lượng các linh mục liên quan đến các yêu cầu về ý chỉ hoặc bối cảnh xã hội và Giáo hội, trong giới hạn thẩm quyền của mình ra sắc lệnh rằng, các linh mục có thể chấp nhận nhiều bổng lễ từ những người dâng lễ khác nhau, dồn chung chúng (cumulandole) với nhau và đáp ứng chúng bằng một Thánh lễ duy nhất, được cử hành theo một ý chỉ “gộp chung” (collettiva) duy nhất, nếu - và chỉ nếu - tất cả những người dâng bổng lễ đã được thông báo về điều này và đã tự do đồng ý.
§2. Ý muốn như vậy của người dâng bổng lễ không bao giờ có thể được cho là có thật; thực vậy, khi không có sự đồng ý rõ ràng, thì luôn luôn được cho là ý muốn đó không được đưa ra.
§3. Trong trường hợp được đề cập ở §1, người cử hành được phép giữ lại cho mình một bổng lễ duy nhất của một ý chỉ duy nhất (x. đ. 950-952 CIC).
§4. Mỗi cộng đồng Kitô hữu nên nhiệt thành cung cấp khả năng cử hành Thánh lễ hằng ngày với một ý chỉ duy nhất, mà mức bổng lễ đã được công đồng giáo tỉnh hoặc hội nghị giáo tỉnh của các Giám mục thiết lập (x. đ. 952 CIC).
Điều 2
Vẫn giữ nguyên điều 905 CIC, khi linh mục cử hành Thánh Thể hợp pháp nhiều lần trong cùng một ngày, nếu cần thiết và được yêu cầu bởi lợi ích thực sự của các tín hữu lợi ích thực sự của các tín hữu, ngài có thể cử hành nhiều Thánh lễ khác nhau ngay cả cho các ý chỉ "gộp chung", với điều kiện là ngài được phép giữ lại, mỗi ngày, chỉ một bổng lễ cho một ý chỉ duy nhất trong số những bổng lễ đã được chấp nhận (x. đ. 950-952 CIC).
Điều 3
§1. Trước hết, cần phải ghi nhớ các quy định của điều 848 CIC, quy định rằng thừa tác viên, ngoài các bổng lễ do nhà chức trách có thẩm quyền ấn định, không được yêu cầu bất cứ điều gì để cử hành các bí tích, luôn tránh để những người nghèo nhất bị tước mất sự giúp đỡ của các bí tích vì nghèo đói. Cũng cần phải tuân thủ những gì được khuyến nghị mạnh mẽ bởi điều 945 §2 CIC, tức là "cử hành Thánh lễ theo ý chỉ của các tín hữu, đặc biệt là những người nghèo nhất, ngay cả khi không nhận bất kỳ bổng lễ nào".
§2. Về nơi đến của các bổng lễ, phải áp dụng, congrua congruis referendo, quy tắc của điều 951 CIC.
§3. Xét đến hoàn cảnh cụ thể của Giáo hội địa phương và hàng giáo sĩ, Giám mục giáo phận có thể, bằng luật riêng, ra lệnh phân bổ các bổng lễ như vậy cho các giáo xứ đang cần trong giáo phận của mình hoặc ở các giáo phận khác, đặc biệt là ở các nước truyền giáo.
Điều 4
§1. Các Đấng Bản Quyền có trách nhiệm hướng dẫn giáo sĩ và giáo dân của mình về nội dung và ý nghĩa của các chuẩn mực này, và giám sát việc áp dụng đúng đắn các chuẩn mực này, đảm bảo rằng số lượng Thánh lễ sẽ cử hành, các ý chỉ, các bổng lễ và các cử hành đã diễn ra được ghi chép chính xác trong sổ lễ thích hợp, cũng như kiểm tra các sổ này hàng năm, trực tiếp hoặc thông qua người khác (x. đ. 958 CIC).
§2. Nói cách riêng, cả các Đấng Bản Quyền và các Mục tử khác của Giáo hội phải bảo đảm rằng, mọi người phân biệt được hết sức rõ ràng giữa việc áp dụng một ý chỉ nhất định của Thánh lễ (kể cả “gộp chung”) và việc đơn giản là tưởng nhớ (ricordo, recollection) trong khi cử hành Lời Chúa hoặc trong một số lúc nào đó của buổi cử hành Thánh Thể.
§3. Xin đặc biệt thông báo cho mọi người biết rằng việc khích lệ hoặc thậm chí chấp nhận các đề nghị liên quan đến hai trường hợp vừa nói là bất hợp pháp nghiêm trọng; ở đâu việc sử dụng như vậy quá phổ biến, các Đấng Bản quyền có thẩm quyền không nên loại trừ việc sử dụng các biện pháp kỷ luật và/hoặc hình sự để xóa bỏ hiện tượng đáng tiếc này.
Điều 5
Xem xét các giá trị, ngay cả các giá trị siêu nhiên, liên quan đến việc thực hành đáng kính và đáng khen là tiếp nhận một bổng lễ để áp dụng một Thánh lễ có thể được áp dụng theo một ý chỉ cụ thể (x. đ. 948 CIC), và cũng để thúc đẩy thông lệ đáng trân trọng là chuyển các ý chỉ của các Thánh lễ dư thừa cùng với các bổng lễ tương ứng đến các nước truyền giáo, các Mục tử của các linh hồn nên quan tâm khuyến khích các tín hữu duy trì thông lệ này một cách thích hợp, và khi thông lệ này bị suy yếu, thì phải tiếp sức và thúc đẩy thông lệ này, cũng thông qua giáo lý thích hợp về những Sự sau cùng và về các Thánh thông công (communio sanctorum).
Điều 6
Ở đâu Công đồng hoặc Hội nghị của các Giám mục giáo tỉnh không đưa ra quy định gì về vấn đề này thì các quy định của Sắc lệnh Mos Iugiter ngày 22 tháng 2 năm 1991 vẫn có hiệu lực.
Bộ Giáo sĩ, mười năm sau khi các chuẩn mực này có hiệu lực, sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu thực hành và luật hiện hành về vấn đề này, nhằm mục đích xác minh việc áp dụng và có thể cập nhật.
Đức Giáo hoàng, vào ngày 13 tháng 4 năm 2025, Chúa Nhật Lễ Lá, đã đặc biệt phê chuẩn Sắc lệnh này và ra lệnh công bố, quy định Sắc lệnh có hiệu lực vào ngày 20 tháng 4 năm 2025, Chúa Nhật Phục sinh, derogatis derogandis, contrariis quibuslibet minime obstantibus.
Lazzaro Card. You Heung sik
Prefetto
Andrés Gabriel Ferrada Moreira
Arcivescovo Tit. di Tiburnia
Segretario
=================================
[1] Francesco, Esortazione apostolica Evangelii gaudium, 24 novembre 2013, in AAS 105 (2013), 1039-1040, n. 47.
[2] Cfr PaoloVI, Lettera apostolica in forma di Motu proprio Firma in traditione,13 giugno 1974, in AAS 66 (1974), 308; Congregazione per il Clero, Decreto Mos iugiter, 22 febbraio 1991, in AAS 83 (1991), 443.
[3] Cfr, adesempio,Constitutiones Apostolorum (± 380) II. 28,5: «Si autem (diaconus) etlectorest, accipiat et ipse una cum presbyteris»; VIII. 31,2-3: «Eulogias, quae in mysticis oblationibus supersunt, diaconi ex voluntate episcopi aut presbyterorum distribuant clero...», in F.X. Funk, Didascalia et Constitutiones Apostolorum (Paderborn,1905; ristampa anastatica 1964),vol.1, pp. 108-109 e 532-533; Canones Apostolorum (5e eeuw) 41, in C.Kirch, Enchiridionfontium historiae Ecclesiasticae antiquae (Barcelona, 1965[9]), n. 699.
[4] Cfr, ad esempio, S.Uffizio, Decreto, 24 settembre 1665, n. 10, in DH 2030; Sacra Penitenzieria Apostolica, Istruzione Suprema Ecclesiae bona, 15 luglio 1984, in Enchiridion Vaticanum S1, nr. 901-912; Congregazione per il Clero, Decreto Mos iugiter, cit., 444, art. 1 §1.
[5] Congregazione per il Clero, Decreto Mos iugiter, cit.,446, art. 5 § 1.
[6] Ibidem, 445, art. 2 § 3.
[7] Cfribidem, 443-444.
===============================================
PHỤ CHÚ
1- Sắc lệnh của Hội nghị Giám mục giáo tỉnh (x. đ. 1 §1 SP)
Sắc lệnh này thuộc loại Sắc lệnh chung hành pháp (Decreta generalia exsecutoria), [Bản dịch HĐGMVN: Sắc luật chấp hành), được Bộ Giáo luật [CIC] nói ở điều 31.
Điều 31
§1. Những sắc lệnh chung hành pháp (Decreta generalia exsecutoria), qua đó ấn định một cách chính xác những cách thức phải tuân giữ trong việc thi hành luật hoặc thúc bách việc tuân giữ luật, có thể được ban bởi những người có quyền hành pháp trong giới hạn thẩm quyền của mình.
§2. Về việc ban hành và về thời hạn để các sắc lệnh được nói đến ở §1 bắt đầu có hiệu lực, thì phải tuân giữ những quy định của điều 8.
Điều 31 quy định một khía cạnh của quyền hành pháp gần giống với các hoạt động lập pháp hơn. Sắc lệnh chung hành pháp cũng tương tự như một đạo luật. Tuy nhiên, nó khác với luật ở chỗ nó không tạo ra một quy tắc luật mới mà áp dụng một quy tắc hiện có một cách cụ thể hơn. Sắc lệnh chung hành pháp phụ thuộc vào một luật trước đó. Các sắc lệnh chung hành pháp ấn định một cách chính xác những cách thức phải tuân giữ trong việc thi hành luật hoặc thúc bách việc tuân giữ luật; không tạo ra luật mới.
Tương tự như những Sắc lệnh chung của HĐGM, để Sắc lệnh chung hành pháp này có giá trị, phải hội đủ ít là hai phần ba số phiếu của các Giám mục trong Giáo tỉnh.
Lưu ý, chữ chung (generalia) trong Sắc lệnh chung - Decreta generalia exsecutoria ám chỉ đến đối tượng của sắc lệnh, là một cộng đoàn Giáo hội có khả năng tiếp nhận luật (đ. 29 CIC). Ở đây là tín hữu của Giáo tỉnh. Nó phân biệt với Sắc lệnh riêng - decretum singulare, ban ra cho một trường hợp riêng biệt (đ. 48 CIC). Nó không có nghĩa là các Giám mục cùng chung nhau ban ra Sắc lệnh.
Sắc lệnh chung hành pháp chung cũng có giá trị tương tự như một luật nên việc ban hành phải theo quy tắc của điều 8 về việc ban hành một luật địa phương.
2 – Yêu cầu có sự đồng ý rõ ràng từ phía người dâng bổng lễ để áp dụng ý chỉ lễ “gộp chung” (x. đ. 1 §2 SP)
Theo Sắc lệnh, sự đồng ý áp dụng ý lễ “gộp chung” của người dâng bổng lễ phải rõ ràng, chứ không được phép giả định hay suy đoán là họ đồng ý. Sắc lệnh muốn bảo vệ sự công bằng mà trong thực hành của Giáo hội đã giữ, đồng thời để tránh sự lạm dụng có tính mại thánh khi áp dụng lễ gộp.
Tuy nhiên, đối với các tín hữu Việt Nam, tư tế khó mà có được sự biểu lộ rõ ràng của sự đồng ý đó. Mặt khác, tín hữu Việt Nam cũng dễ dàng ý đồng ý nếu có hỏi. Vậy ta có thể giả định là họ đồng ý hay không?
Câu trả lời có lẽ sẽ thấy trong trong Sắc lệnh của Hội nghị các Giám mục giáo tỉnh, vì Sắc lệnh sẽ hướng dẫn thi hành Secundum Probatum như thế nào.
3- Phân biệt với việc đơn giản là tưởng nhớ (ricordo, recollection, x. đ. 4 §2 SP)
Điều 4 §2 SP yêu cầu phân biệt giữa ý lễ nhất định và sự đơn giản là tưởng nhớ (ricordo, recollection).
Sự tưởng nhớ ở đây là gì?
Đó là, trong các buổi cầu nguyện hay Thánh lễ, người ta có thể hồi tưởng lại những ân huệ, bài học hoặc kỷ niệm liên quan đến đức tin, từ đó tạo ra sự kết nối sâu sắc hơn với bản thân và với Thiên Chúa. Nói chung, sự tưởng nhớ giúp con người tăng cường ý thức về bản thân và ơn Chúa. Vì vậy, trong Thánh Lễ nhân dịp kỷ niệm hôn phối, sinh nhật, năm linh mục, ngân khánh… tín hữu có thể tưởng nhớ và dâng tâm tình tạ ơn…
Điều 4 §2 SP yêu cầu phân biệt giữa ý lễ nhất định và sự tưởng nhớ đơn giản. Sự “tưởng nhớ” đó không được phép đồng hóa với “ý chỉ lễ” nhất định mà có kèm bổng lễ. Sẽ là trái luật, nếu tư tế áp dụng một ý lễ nhất định và giữ cho mình một bổng lễ đó, đồng thời lại giữ thêm một số tiền khác với lý do “tưởng nhớ” được nhắc đến trong Thánh Lễ. Đây là lấy tiền lễ với một danh nghĩa khác, không được phép.