BẢN QUYỀN ĐIỀU TRA SƠ BỘ THẾ NÀO SAU TRÌNH BÁO LẠM DỤNG TÌNH DỤC TRẺ VTN?

Chủ nhật - 25/05/2025 10:00
BẢN QUYỀN ĐIỀU TRA SƠ BỘ THẾ NÀO
SAU TRÌNH BÁO LẠM DỤNG TÌNH DỤC TRẺ VTN?

Lm J.B. Lê Ngọc Dũng

Viết tắt:
- Vad: Vademecum, 16-07-2020 – Chỉ Nam áp dụng Tông thư Vos Estis Lux Mundi
- SST: Sacramentorum Sanctitatis Tutela, 30-4-2001, Quy Tắc Về Tội Phạm nặng hơn dành riêng cho Bộ Giáo Lý Đức Tin.
- CIC: Codex Iuris Canonici, Bộ Giáo luật 1983


1. Khi nhận được trình báo Bản quyền phải làm những việc gì?

2.1. Ra Sắc lệnh mở cuộc điều tra sơ bộ (preliminary investigation)
- Sau khi nhận được trình báo, Bản quyền sẽ ra Sắc lệnh mở một cuộc “điều tra sơ bộ” nếu thấy trình báo có vẻ đúng thật nào đó “saltem verisimilis”. Nếu trình báo không có vẻ thật gì cả thì Bản quyên có thể không mở cuộc điều tra, tuy nhiên, Bản quyền cẩn thận giữ tài liệu cùng với ghi chú giải thích lý do cho quyết định của mình (x. Vad. 16).

2.2. Quyết định không mở cuộc điều tra sơ bộ, lý do
Quyết định cho rằng trình báo không được xác thực chỉ được ban hành trong trường hợp rất rõ ràng; ví dụ, vào thời điểm phạm tội người đó chưa phải là một giáo sĩ; hoặc nạn nhân bị cáo buộc không phải là trẻ vị thành niên; hoặc nếu có một sự thật được biết là người bị cáo không thể có mặt tại hiện trường vụ án (x. Vad. 18). Tuy nhiên, ngay cả trong những trường hợp này, Bản quyền nên thông báo cho Bộ Giáo lý Đức tin về trình báo và về quyết định hoãn cuộc điều tra trước đó do thiếu tính xác thực rõ ràng (x. Vad. 19).

2.3. Tuy không mở cuộc điều tra sơ bộ nhưng ra biện pháp ngăn ngừa
Trong trường hợp không có phạm tội trẻ vị thành niên, nhưng đương sự lại có hành vi không phù hợp và thiếu thận trọng, nếu Bản quyền thấy cần thiết để bảo vệ lợi ích chung và để tránh tai tiếng, nên thực hiện các biện pháp khác có tính chất hành chính đối với người bị báo (ví dụ, giới hạn lại các thừa tác vụ), hoặc áp đặt các biện pháp dược hình nêu trong Giáo luật điều 1339, để ngăn ngừa tội phạm (x. điều 1312 § 3 CIC), (x. Vad. 20).

2.4. Trường hợp trình báo được trực tiếp gởi đến Bộ Giáo lý Đức tin
Có thể xảy ra trường hợp trình báo được trực tiếp gởi đến Bộ Giáo lý Đức tin, không qua trung gian của Đấng Bản quyền. Trong trường hợp đó, Bộ có thể yêu cầu Bản quyền tiến hành điều tra, hoặc Bộ tự thực hiện điều tra (x. Vad. 24).

2.5. Thủ tục mở cuộc điều tra sơ bộ
Bản quyền sẽ ra một Sắc lệnh điều tra sơ bộ (đ. 1719), do chính ngài điều tra hoặc bổ nhiệm một người tiến hành việc điều tra, gọi là Thẩm cứu viên (Auditor). Trong văn bản bổ nhiệm ngài cũng kể ra các quyền hạn được đề cập trong điều 1717 § 3. Sau này, Thẩm cứu viên không được giữ nhiệm vụ thẩm phán. Bản quyền cũng bổ nhiệm một Lục sự (Notaio) để công chứng các tài liệu (x. Vad. 41)

2.6. Thủ tục kết thúc điều tra sơ bộ
Khi việc thu thập các thông tin về tội phạm được đầy đủ, Bản quyền sẽ ra một sắc lệnh kết thúc thẩm cứu và nhanh chóng gởi một bản sao đến Bộ Giáo lý Đức tin. Bản chính của hồ sơ sẽ được lưu giữ ở Tòa Giám mục.  

2.7. Giữ bí mật nhưng không được áp đặt nghĩa vụ im lặng cho người báo cáo
Cần lưu ý rằng ở giai đoạn này Bản quyền cần phải giữ bí mật. Tuy nhiên, không được áp đặt nghĩa vụ phải giữ im lặng đối với bất kỳ ai báo cáo, đối với người tuyên bố đã bị xúc phạm và đối với các nhân chứng về các sự kiện (x. Vad. 30).


3. Quá trình điều tra sơ bộ diễn ra như thế nào?

3.1. Điều tra sơ bộ (preliminary investigation) là gì?
3.1.1. Điều tra sơ bộ không phải là phiên tòa xét xử
Đã có những lầm lẫn cho rằng Bản quyền sẽ xét xử sau khi nhận được trình báo. Vì vậy Vademecum đã nhắc nhở và giải thích mục đích của điều tra:
Phải luôn nhớ rằng cuộc điều tra sơ bộ không phải là một phiên tòa, và mục đích của nó không phải là để đạt được sự chắc chắn luân lý liên quan đến sự tiến triển của các sự kiện là đối tượng của lời buộc tội. Nó phục vụ: a/ thu thập dữ liệu hữu ích cho việc kiểm tra chi tiết hơn về notitia de delicto; và b/ xác định tính hợp lý của báo cáo, tức là xác định điều được gọi là fumus delicti, tức là cơ sở đủ về mặt pháp lý và thực tế để coi cáo buộc có vẻ đúng sự thật”.
Trước tiên, phải hiểu rằng cuộc điều tra sơ bộ không phải là một phiên tòa, nghĩa là Bản quyền không được xét xử và đưa ra một kết luận nào về tội hoặc đưa ra hình phạt.

3.1.2. Mục đích của điều tra
Mục đích không phải là để đạt được sự chắc chắn luân lý về “sự kiện” tội phạm hoặc tội phạm đã diễn tiến như thế nào. Sự chắc chắn luân lý này cần có ở giai đoạn tiếp theo sau này, nếu Bộ trao cho Giám mục xét xử hình sự theo thủ tục tư pháp (thủ tục tòa án) hoặc ngoại tư pháp.
Ở giai đoạn điều tra này chỉ cần thu tích những thông tin, có mục đích tìm hiểu để công nhận tính xác thật của “trình báo”. Vademecum hướng dẫn rằng, cuộc điều tra cần phải:
a/ Đào sâu trình báo về tội phạm, nghĩa là, tìm kiếm thêm các chi tiết, các dữ liệu liên quan.
b/ Để công nhận tính xác thật của trình báo, nghĩa là với những các chi tiết, các dữ liệu liên quan thu thập được, ta có đủ cơ sở để xem xét rằng tội đã có thể xảy ra (x. Vad. 33).

3.2. Điều tra sơ bộ như thế nào?
3.2.1. Thu thập chứng cứ
Thu thập càng nhiều càng tốt (x. Vad. 34):
a- Các sự kiện liên quan làm cơ sở cho sự buộc tội.
Ví dụ: Giáo sĩ nhận trẻ em làm con thiêng liêng để gần gũi. Hứa hẹn giúp đỡ cho trẻ đi tu, học đại học… Trẻ VTN thường ở trong phòng riêng của giáo sĩ. Cha mẹ thấy dấu hiệu bất thường nơi trẻ: giờ giấc sinh hoạt bất thường như tập hát ở nhà thờ về qua giờ, tính tình đổi khác, có thai, phá thai…
b- Số lượng và thời gian thực hiện hành vi phạm tội.
Có thể sự kiện phạm tội chỉ một lần với một người nhưng cũng có thể nhiều lần với nhiều người và có thể trong thời gian ngắn hoặc dài. Ví dụ như, trường hợp trẻ bị đe dọa phải thường xuyên đến gặp để bị cáo được thỏa mãn, nhiều lần trong thời gian dài suốt mấy năm. Có thể chỉ có một nạn nhân nhưng cũng có thể nhiều nạn nhân.
c- Thông tin về nạn nhân. Cần tìm biết về gia cảnh, lịch sử cá nhân, tính tình, đạo đức… của người được cho là nạn nhân. Nhờ đó có thể nhận biết sự trung thực hay giả dối trong trình báo.
d- Đánh giá về tổn hại. Tuy chưa phải là xét xử, nhưng Thẩm cứu viên cũng cần đánh giá ban đầu về bất kỳ thể chất, tinh thần nào và tổn hại về mặt đạo đức. Khi kết thúc điều tra sơ khởi, Giám mục và thẩm cứu viên sẽ phải gởi những đánh gía của mình cùng với bộ hồ sơ lên Bộ GLĐT.
e- Thêm những tội khác của bị cáo. Nếu các trình báo về tội khác được phát hiện thì chúng cũng sẽ được điều tra thêm trong cùng một cuộc điều tra (x. Vad. 35). Các tội danh khác (x. điều 8 § 2 SST) và các sự kiện có vấn đề nổi lên từ hồ sơ tiểu sử của bị cáo cũng sẽ được chỉ ra. Ví dụ: gian dâm với phụ nữ trưởng thành, tích cực cộng tác phá thai, giải tội cho người đồng phạm ĐR VI, thường hay chểnh mãng nhiệm vụ, rượu chè say sưa, biển thủ tài chánh, bị thuyên chuyển hay thay đổi chức vụ vì gây những scandal

3.2.2. Những phương cách thu thập chứng cứ
Ngoài những trình báo bằng văn bản hoặc bằng miệng có được, Thẩm cứu viên có thể thực hiện những công việc sau:
a- Xin tường trình. Thẩm cứu viên nên xin chính nạn nhân viết bản tường trình một cách chi tiết. Cũng nên xin những người thân như cha mẹ, anh chị em hoặc những người có thể biết được những thông tin liên hệ viết bản tường trình.
b- Thẩm vấn trực tiếp. Thẩm cứu viên có thể mời họ đến Văn phòng hoặc đích thân đến gặp gỡ nạn nhân, nhân chứng… để thẩm vấn hoặc lấy lời khai. Không nên hỏi qua điện thoại, vì chuyện tế nhị, người ta không muốn nói và đôi khi vì sự sự lừa gạt xảy ra trên điện thoại.
Trong những trường hợp cần thiết phải thẩm vấn trẻ vị thành niên hoặc người tương đương, cho phép trẻ vị thành niên có người lớn đáng tin cậy đi cùng và tránh mọi tiếp xúc trực tiếp với người bị cáo (x. Vad. 51).
c- Gởi những câu hỏi. Thẩm cứu viên có thể gởi những câu hỏi để người được cho là nạn nhân hoặc các nhân chứng trả lời.

3.2.3. Điều không cần thiết
Trong giai đoạn điều tra sơ khởi này không cần thiết phải tiến hành thu thập tỉ mỉ bằng chứng. Nó sẽ cần thiết thu thập tỉ mỉ tùy vào thủ tục tố tụng hình sự nào đó nếu có tiếp theo (x. Vad. 34).


4. Những lưu ý trong giai đoạn điều tra sơ khởi

a- Phạm vi điều tra khá rộng. Có thể thu thập lời khai và tài liệu, thuộc bất kỳ loại và nguồn gốc nào (kể cả kết quả điều tra hoặc xét xử do cơ quan dân sự tiến hành), có thể thực sự hữu ích trong việc chứng minh và xác nhận tính xác thực của lời buộc tội. Có thể chỉ ra các tình tiết miễn trừ, giảm nhẹ hoặc tăng nặng theo quy định của Giáo luật (x. Vad. 34).
b- Bảo vệ thanh danh: Phải bảo vệ thanh danh của những người liên quan (bị cáo, nạn nhân, nhân chứng), để không tạo ra thành kiến, trả thù hoặc phân biệt đối xử. Tuy nhiên, nếu do đó, lợi ích chung đang gặp nguy hiểm, thì việc phổ biến tin tức về sự tồn tại của một lời buộc tội không nhất thiết cấu thành một hành vi vi phạm thanh danh (x. Vad. 44).
c- Đánh giá tất cả các thiện ích đang bị đe dọa: ngoài việc bảo vệ thanh danh của những người liên quan, cũng phải cân nhắc đến, ví dụ, nguy cơ gây tổn hại đến cuộc điều tra sơ bộ hoặc gây tai tiếng cho các tín hữu, và lợi thế của việc thu thập trước tất cả các bằng chứng có thể hữu ích hoặc cần thiết (x. Vad. 53).
d- Không được kết tội: Ở giai đoạn này vẫn chưa thể xác định được tội phạm của bị cáo, nên phải hết sức cẩn thận tránh bất kỳ lời khẳng định nào nhân danh Giáo hội, trong các giao tiếp công khai hoặc riêng tư (x. Vad. 46).
e- Giữ bí mật: Các trình báo, xét xử và quyết định liên quan đến các tội phạm phải được giữ bí mật công vụ. Tuy nhiên, người khiếu nại vẫn có thể công khai hành động. Hơn nữa, vì không phải tất cả các hình thức trình báo về tội phạm đều là tố cáo tội, người ta có thể đánh giá khi nào thì coi mình bị ràng buộc phải giữ bí mật, nhưng luôn ghi nhớ sự tôn trọng thanh danh (x. Vad. 47).
f- Thẩm vấn trẻ vị thành niên: Nếu cần lắng nghe một trẻ vị thành niên hoặc một người tương đương với trẻ vị thành niên, thì có thể cho phép trẻ vị thành niên đi cùng với một người lớn mà trẻ tin tưởng và tránh việc trẻ này tiếp xúc trực tiếp với bị cáo (x. Vad. 51).
g- Có cho bị cáo biết không? Trong giai đoạn điều tra sơ bộ, một nhiệm vụ đặc biệt tế nhị thuộc về Bản quyền là quyết định xem có nên thông báo cho bị cáo về việc đó hay không và khi nào (x. Vad. 52).
h- Nếu quyết định thẩm vấn bị cáo: Vì đây là giai đoạn trước khi xét xử, nên không bắt buộc phải chỉ định người bào chữa chính thức. Tuy nhiên, nếu cho là phù hợp, người ấy có thể tự chọn cho mình một người bảo trợ. Không đòi buộc bị cáo tuyên thệ (x. Vad. 54).


5. Có thể áp đặt biện pháp phòng ngừa
Giám mục ngay từ khi bắt đầu điều tra sơ bộ, có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa phi hình sự được liệt kê trong điều 1722 của Bộ Giáo luật, với mục đích bảo vệ danh tiếng của những người liên quan và bảo vệ lợi ích công, cũng như để tránh các sự kiện khác, ví dụ như tránh lan truyền vụ bê bối, tránh nguy cơ che giấu bằng chứng trong tương lai, tránh kích hoạt các mối đe dọa nhằm ngăn cản nạn nhân thực hiện các quyền của mình; bảo vệ các nạn nhân khác có thể có (Vad. 58).
Các biện pháp phòng ngừa trong Giáo luật điều 1722 được kể là:
a- Cấm bị cáo thi hành thừa tác vụ thánh, hay một chức vụ và nhiệm vụ nào trong Giáo hội;
b- Buộc hoặc cấm bị cáo không được cư ngụ ở một nơi hoặc một địa hạt nào;
c- Cấm bị cáo không được công khai tham dự vào Bí tích Thánh Thể.
Cần lưu ý rằng, biện pháp phòng ngừa không phải là một hình phạt, nhưng chỉ là những giải pháp mục vụ. Kết luận về tội và hình phạt chỉ được công bố sau những tiến trình xét xử do Bộ Giáo Lý Đức Tin đảm nhiệm hoặc Bộ ủy thác cho cấp dưới.
- Nên tránh lựa chọn đơn giản là chuyển chức vụ, chuyển địa điểm hoặc chuyển tu viện đối với giáo sĩ có liên quan, với ý tưởng cho rằng việc cách ly người ấy khỏi nơi được giả định xảy ra tội ác hoặc khỏi người được cho là nạn nhân là giải pháp đủ để giải quyết vụ án (x. Vad. 63).
- Các biện pháp phòng ngừa được áp đặt bằng một mệnh lệnh riêng (precetto singolare) được thông báo hợp pháp (x. Vad. 64).
- Khi quyết định sửa đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp phòng ngừa, cần phải thực hiện điều đó bằng một sắc lệnh cụ thể được thông báo hợp pháp, trừ khi tại thời điểm đó, chúng chấm dứt theo quy định của pháp luật (x. Vad. 65).


6. Kết thúc điều tra sơ bộ
a. Không chậm trễ:  Để đảm bảo công bằng và thực thi công lý, khuyến nghị rằng thời hạn của cuộc điều tra sơ bộ phù hợp với mục đích của cuộc điều tra, đó là đánh giá tính hợp lý của trình báo phạm tội và từ đó đánh giá sự tồn tại của tội (fumus delicti).
Sự chậm trễ vô cớ trong cuộc điều tra sơ bộ có thể cấu thành một hành động chểnh mãng (negligenza)  của giáo quyền (x. Vad. 66).
b. Giao tài liệu và đánh giá về kết quả điều tra: Nếu cuộc điều tra được thực hiện bởi một người do Bản quyền bổ nhiệm chỉ định, người đó phải giao cho Bản quyền tất cả các tài liệu của cuộc điều tra cùng với đánh giá của chính mình về kết quả điều tra (x. Vad. 67).
c- Ra Sắc lệnh kết thúc điều tra: Bản quyền phải ra một “sắc lệnh” kết thúc cuộc điều tra sơ bộ (x. Vad. 68).
d- Gởi bản sao và đánh giá (votum): Một khi cuộc điều tra sơ bộ đã được kết thúc, và bất kể kết quả ra sao, Bản Quyền phải nhanh chóng gửi một bản sao xác thực của các tài liệu liên quan đến Bộ GLĐT. Đính kèm với bản sao này là bản tóm tắt (theo mẫu có sẵn của Tòa Thánh) và ý kiến đánh giá (votum) của Bản quyền về kết quả điều tra và đưa ra bất kỳ đề xuất nào có thể có về cách tiến hành.
Trong trường hợp Bề trên cấp cao (Superiore maggiore, Vd. Bề trên tỉnh dòng…) tiến hành cuộc điều tra sơ bộ, thì ngài cũng nên gửi một bản sao hồ sơ điều tra đến Bề trên Tổng quyền hay vị Điều hành tối cao (Moderatore supremo) hoặc cho Giám mục giáo phận nếu tu hội hoặc Tu đoàn Đời sống Tông đồ thuộc luật giáo phận, vì họ là những nhân vật mà Bộ thường sẽ liên lạc sau này. Đổi lại, vị Điều hành tối cao sẽ gửi ý kiến đánh giá (votum) của mình tới Bộ GLĐT (x. Vad. 70).
e- Chỉ gởi cho Bộ một bản sao bộ hồ sơ duy nhất: Toàn bộ hồ sơ cần dịch ra tiếng Anh hoặc Pháp, Ý, Tây Ban Nha… được chứng thực bởi một công chứng viên hay Lục sự (Notaio), miễn là công chứng viên đó đã không được chỉ định thực hiện điều tra sơ bộ (x. Vad. 72). Phải gởi một bản sao duy nhất bằng ngoại ngữ này cho Bộ GLĐT.
- Bản gốc của tất cả hồ sơ và bản dịch ngoại ngữ khác phải được lưu giữ trong văn khố mật của TGM hay của Tu hội ĐSTH (x. Vad. 74).
f- Chờ đợi hướng dẫn từ Bộ GLĐT: Sau khi các tài liệu của cuộc điều tra sơ bộ đã được gửi đến Bộ GLĐT, Bản quyền sẽ phải chờ thông tin liên lạc hoặc hướng dẫn về vấn đề này từ Bộ (x. Vad. 74).
- Trong thời gian chờ đợi, nếu có các yếu tố khác liên quan hoặc cáo buộc mới xuất hiện, hãy gửi đến Bộ GLĐT càng sớm càng tốt. Nếu thấy việc mở lại cuộc điều tra sơ bộ có vẻ hữu ích, thì thông báo cho Bộ ngay lập tức (x. Vad. 75).


7.  Ý kiến đánh giá (Votum)
Có hai người cần đưa ra ý kiến đánh giá trong bộ hồ sơ gởi lên Bộ GLĐT.

7.1. Thẩm cứu viên đánh giá về kết quả điều tra
Nếu cuộc điều tra được thực hiện bởi một người có khả năng do Bản quyền bổ nhiệm, thì người đó phải giao cho tất cả các tài liệu của cuộc điều tra cùng với đánh giá của chính mình về kết quả điều tra cho Bản quyền (x. Vad. 67). Đây Không là một kết luận của một cuộc xét xử nhưng chỉ là một đánh giá của Thẩm cứu viên về kết quả điều tra, để trình lên Giám mục và sau đó lên Bộ GLĐT. Đánh giá có thể như sau:
- Có tội: nghĩa là, cho rằng sự trình báo tội là xác thật, bị cáo có tội. Bị cáo đã phạm tội với những nạn nhân A, B…, với số lần…, trong thời gian… Mức độ tội có thể là: nghiêm trọng, không nghiêm trọng… gây tổn hại….
- Không có tội: nghĩa là, cho rằng sự trình báo tội là không đáng tin, hoặc sự trình báo không đúng với tội danh mà Tự sắc VELM ấn định, hoặc thấy có sự vô lý rõ rệt trong trình báo, hoặc trình báo có cố ý vu cáo giáo sĩ vì những lý do khá rõ.
- Không xác định được tội: Sự trình báo và những thông tin thu thập được không thể xác định được bị cáo đã có phạm tội hay không, vì những lý do...

7.2. Bản quyền
Vademecum số 69 có hướng dẫn việc Bản quyền đánh giá:
… Cùng với bản sao các tài liệu và mẫu tabella riassuntiva có ở cuối Vademecum này đã hoàn thành đầy đủ, ngài phải đưa ra đánh giá của riêng mình về kết quả điều tra (votum) và đưa ra bất kỳ đề xuất nào ngài có thể có về cách tiến hành (ví dụ, nếu ngài cho rằng việc khởi xướng một thủ tục hình sự là phù hợp và loại nào; nếu ngài cho rằng hình phạt do chính quyền dân sự áp dụng là đủ; nếu việc áp dụng các biện pháp hành chính của Đấng Bản quyền hoặc Gerarca là thích hợp hơn; nếu thời hiệu đối với tội phạm nên được tuyên bố hoặc chấp thuận miễn trừ).
Xin chú giải:
a- Đánh giá (Votum) của riêng mình về kết quả điều tra: tương tự như sự đánh giá của thẩm cứu viên nêu trên.
b- Đưa ra đề xuất nào ngài có thể có về cách tiến hành (and to offer any suggestions he may have on how to proceed).
Ở đây, cần biết chính Bộ GLĐT tiến hành xét xử như thế nào.
Bộ Giáo Lý Đức Tin, nếu có quyết định xét xử hình sự, sẽ có thể áp dụng một trong ba loại thủ tục sau đây (Vad. 85):
a- Thủ tục được nói ở trong Tự sắc Sacramentorum Sanctitatis Tutela điều 21 § 2, 20, được dành riêng cho các trường hợp rất nghiêm trọng, kết thúc bằng quyết định trực tiếp của Đức Giáo hoàng, sa thải bị cáo ra khỏi hàng giáo sĩ và ban miễn chuẩn luật độc thân giáo sĩ.
b- Thủ tục xét xử hình sự tư pháp, nghĩa là, xét xử theo thủ tục của tòa án, theo những quy tắc của Bộ Giáo luật, được xét xử bởi hiệp đoàn ba thẩm phán và kết thúc vụ xử bằng một bản án (sentence), (x. Vad. 87).
c- Thủ tục xét xử hình sự ngoại tư pháp, nghĩa là xét xử hành pháp, nếu ở Giáo phận, do Đức Giám mục hoặc người được ngài ủy nhiệm cùng với hai hội thẩm và kết thúc vụ xử bằng một sắc lệnh (decree), (x. Vad. 91-129).
Những thủ tục xét xử hình sự tư pháp hoặc ngoại tư pháp có thể do chính Bộ Giáo lý Đức Tin thực hiện hoặc ủy thác cho cấp dưới (Giám mục giáo phận), (Vad. 89. 93).
Thông thường, Bộ GLĐT sẽ ủy thác cho Giám mục giáo phận hoặc Bề trên cấp cao tu hội ĐSTH xét xử theo thủ tục hình sự ngoại tư pháp, được Vademecum hướng dẫn ở những số 91-129.
Có lẽ Bộ sẽ không ủy thác cho cấp dưới xử theo thủ tục hình sự tư pháp (xử bằng tòa án), vì thủ tục tư pháp này đòi hỏi phải có đủ ba thẩm phán và tuân theo những nguyên tắc luật rất chặc chẻ.
Đề xuất cách tiến hành thế nào?
- Nếu Bản quyền thấy rõ ràng bị cáo vô tội, nên đề xuất áp dụng các biện pháp hành chính do Đấng Bản quyền là đủ.
- Bản quyền nên đề nghị chính Bộ xét xử vụ án, nếu thấy bị cáo có thể có tội và thấy việc xét xử hình sự của mình, có thể gặp những khó khăn, ví dụ bị cáo dùng những quyền lực, ảnh hưởng của mình để chống lại, gây mất uy tín hoặc hãm hại Bản quyền, cho rằng Giám mục đã xử oan, thiên vị…
- Bản quyền có thể đề nghị Bộ GLĐT áp dụng thủ tục được nói ở trong Tự sắc Sacramentorum Sanctitatis Tutela điều 21 § 2, 20, kết thúc bằng quyết định trực tiếp của Đức Giáo hoàng, sa thải bị cáo ra khỏi hàng giáo sĩ và ban miễn chuẩn luật độc thân giáo sĩ, nếu thấy tội rõ ràng là đã xảy ra và xảy ra nghiêm trọng, như là tội đã xảy ra nhiều lần, bắt nạn nhân làm nô lệ tình dục, buộc nạn nhân phá thai…

8. Hoàn thành bảng Tóm tắt về vụ án tội được dành riêng
 
 Bảng tóm tắt TABULAR SUMMARY FOR CASES OF DELICTA RESERVATA
có thể lấy xuống từ trên website đăng Vademecum
  https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20200716_vademecum-casi-abuso_en.html


=============================================================

PHỤ LỤC 
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ XÂM HẠI
TÌNH DỤC TRẺ EM
 
Luật hình sự năm 2015 được sửa đổi năm 2017.
Luật hình sự Việt Nam dùng từ ngữ "Xâm hại tình dục trẻ em" để nói chung các trường hợp  quen gọi là "lạm dụng tình dục". Luật Việt Nam cũng phân biệt các loại tội: "hiếp dâm", "cưỡng dâm", "giao cấu" hoặc "thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác" và đối với trẻ em có phân biệt hai độ tuổi: "dưới 13 tuổi" và "đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" với những khung phạt khác nhau.
Sau đây là phần trích nguyên văn một số trong các điều khoản 141-147 về tội xâm hại tình dục trẻ em:

Điều 141. Tội hiếp dâm
1.50 Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2.51 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
c) Nhiều người hiếp một người;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Có tính chất loạn luân;
g) Làm nạn nhân có thai;
h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
i) Tái phạm nguy hiểm.

3.52 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 142. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;
b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.

2.53 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Đối với 02 người trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.

3.54 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;
b) Nhiều người hiếp một người;
c) Đối với người dưới 10 tuổi;
d) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
đ) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 143. Tội cưỡng dâm
1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2.55 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Nhiều người cưỡng dâm một người;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Có tính chất loạn luân;
đ) Làm nạn nhân có thai;
e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%;

g) Tái phạm nguy hiểm.
 
3.56 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 144. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

2.57 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3.58. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Nhiều người cưỡng dâm một người;
b) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%59;

e) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 147. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Có mục đích thương mại;
e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Làm nạn nhân tự sát.

 
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
 
 

Tác giả: JB Dũng Lm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

GIAOLUATCONGGIAO.COM

GIỚI THIỆU TRANG GIÁO LUẬT CÔNG GIÁO

Con xin giới thiệu trang Web ;http://giaoluatconggiao.com được thành lập với sự khuyến khích của Đức cha Toma Nguyễn Văn Trâm, Gp. Bà Rịa phụ trách Giáo Luật trong HĐGMVN, Đức cha Giuse Võ Đức Minh Gp Nha Trang. Trang Web được phát kiến và hình thành với các lý do sau: - Trong khóa Bổ Túc...

THỐNG KÊ
  • Đang truy cập3
  • Hôm nay1,674
  • Tháng hiện tại66,889
  • Tổng lượt truy cập11,524,265
Liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi