PHONG BAN CHỨC THÁNH CHO TU SĨ
Lm. J.B. Lê Ngọc Dũng
Việc phong ban chức thánh cho các thành viên của các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn đời sống tông đồ (tu sĩ), thuộc luật giáo phận, thuộc quyền Bề trên hay Giám mục giáo phận?
Trước lời xin của Bề trên về việc phong chức thánh cho những thành viên của mình, Giám mục giáo phận sẽ đón nhận tất cả hay hạn chế hoặc từ chối?
1. Quyền phong ban chức thánh cho tu sĩ
Điều 1019
§1. Thuộc quyền Bề trên cấp cao của một hội dòng giáo sĩ thuộc luật giáo hoàng, hoặc của một tu đoàn đời sống tông đồ giáo sĩ thuộc luật giáo hoàng cấp ủy nhiệm thư để phong ban chức phó tế và chức linh mục cho những người thuộc quyền mình đã được gia nhập vào hội dòng hay tu đoàn cách vĩnh viễn hoặc dứt khoát theo hiến pháp.
§2. Việc phong ban chức cho tất cả những thành viên khác thuộc bất cứ hội dòng hoặc tu đoàn nào đều được chi phối bởi luật dành cho các giáo sĩ triều, mọi đặc quyền đã được ban cho các Bề trên đều bị thu hồi.
1.1. Thuộc Bề trên cấp cao
Điều 1019 §1 quy định những Bề trên cấp cao của một hội dòng giáo sĩ thuộc luật giáo hoàng, hoặc của một tu đoàn đời sống tông đồ giáo sĩ thuộc luật giáo hoàng có thẩm quyền cấp ủy nhiệm thư để phong ban chức phó tế và chức linh mục.
Như vậy, quyền cho phong chức thuộc Bề trên cấp cao. Vị này, do không có chức Giám mục, sẽ viết ủy nhiệm thư xin một Giám mục phong chức cho thành viên của mình.
Các hội dòng giáo sĩ: Chúa Cứu Thế, Ngôi Lời (SVD), Phanxicô… là những dòng thuộc luật giáo hoàng. Bề trên tỉnh dòng, được Giáo luật kể là Bề trên cấp cao, có quyền cho việc phong chức thánh.
1.2. Thuộc quyền Giám mục giáo phận
Điều 1019 §2 quy định việc phong ban chức thánh cho tất cả những thành viên khác thuộc bất cứ hội dòng hoặc tu đoàn nào đều được chi phối bởi luật dành cho các giáo sĩ triều. Theo đó, các thành viên thuộc tu hội hay tu đoàn thuộc luật giáo phận, được chi phối bởi luật dành cho các giáo sĩ triều. Vì vậy, thẩm quyền phong chức thánh thuộc về Giám mục giáo phận.
Giám mục giáo phận nào?
Ở đây vấn đề cần bàn đó là Giám mục giáo phận nào có quyền phong ban chức thánh cho tu sĩ thuộc luật giáo phận.
Điều luật 1016 dành cho giáo sĩ triều, được áp dụng cho tu sĩ (thuộc luật giáo phận) quy định:
“… là Giám mục giáo phận tại nơi tiến chức có cư sở hoặc Giám mục giáo phận tại nơi tiến chức đã quyết định dấn thân phục vụ”.
Cần phân biệt (vì đã có nhiều nhầm lẫn) về cư sở của tu sĩ, được nói ở điều 103, là loại cư sở pháp lý, không gắn liền với thời gian cư ngụ tại một nơi. Trái lại, cư sở dành cho giáo dân, được nói đến điều 102, là loại cư sở có gắn liền đến thời gian cư ngụ (được 5 năm).
Điều 103 quy định tu sĩ thủ đắc cư sở tại nơi toạ lạc của “nhà mà họ được đăng nhập” (domus cui adscribuntur). Động từ La tinh "Adscribuntur" ở điều 103 không quy định về cư sở của tu sĩ là nơi tu sĩ đang "ở" hay "cư ngụ", mà chỉ quy định là nơi mà tu sĩ "được ghi danh" hay "được chỉ định", "được đăng nhập" một cách thụ động. Thông thường, khi tu sĩ khấn lần đầu họ được đăng nhập vào tu hội hay tu đoàn và có sư sở tại giáo phận mà họ có trụ sở chính hay còn gọi là nhà mẹ. Trong trường hợp họ thuộc một tỉnh dòng thì họ có cư sở tại giáo phận nơi tọa lạc trụ sở tỉnh dòng. Vì vậy, Giám mục có quyền phong ban chức thánh cho tu sĩ là Giám mục nơi họ có cư sở, tức là nơi họ được đăng nhập (đ. 103), và thường là giáo phận mà tu hội hay tu đoàn có trụ sở chính hay nhà mẹ.
Tiêu chí “nơi tiến chức dấn thân phục vụ” (đ. 1016) hầu như chỉ áp dụng cho ứng viên triều, như điều 1025 §3 quy định: “Giám mục phong ban chức thánh cho một người thuộc quyền mình để phục vụ một Giáo Phận khác, thì phải chắc chắn là người nhận lãnh chức thánh sẽ gia nhập Giáo Phận ấy”. Trong khi đó, nơi tu sĩ sẽ phục vụ sẽ được thẩm quyền của tu hội hay tu đoàn chỉ định, chứ không do tu sĩ có nguyện vọng dấn thân phục vụ. Tu hội sẽ chỉ định cho tu sĩ nơi phục vụ và thường được thay đổi từ cộng đoàn này sang cộng đoàn khác hoặc từ giáo phận này sang giáo phận khác.
Vì vậy, tiêu chí “nơi tiến chức dấn thân phục vụ” không áp dụng cho tu sĩ. Giám mục giáo phận nơi tu sĩ đang hiến thân phục vụ không có thẩm quyền phong chức thánh cho tu sĩ ấy, nhưng thuộc về Giám mục giáo phận nơi nhà mẹ hay trụ sở của tu sĩ.
2. Những điều kiện để được phong ban chức thánh
2.1. Hữu ích cho thừa tác vụ của Giáo hội
Điều 1025
§1. Để trao ban chức Linh mục hay chức phó tế, sau khi đã trải qua thời gian thử thách chiếu theo quy tắc của luật, ứng viên buộc phải có những phẩm chất cần thiết, theo sự nhận định của Giám mục riêng hoặc của Bề trên cấp cao có thẩm quyền, không bị một điều bất hợp luật hay một ngăn trở nào ràng buộc, và phải chu toàn các điều kiện tiên quyết chiếu theo quy tắc của các điều l033 - l039; ngoài ra, còn phải thu thập các văn kiện được nói đến ở điều 1050 và phải thực hiện việc điều tra được dự liệu ở điều 1051.
§2. Hơn nữa, ứng viên phải được Bề trên hợp pháp của mình nhận định là hữu ích cho thừa tác vụ của Giáo hội.
§3. Giám mục phong ban chức thánh cho một người thuộc quyền mình để phục vụ một Giáo Phận khác, thì phải chắc chắn là người nhận lãnh chức thánh sẽ gia nhập Giáo Phận ấy.
Điều 1025, §2 đặc biệt nhắc nhở những vị có quyền phong chức thánh rằng ứng viên phải được coi là hữu ích cho thừa tác vụ của Giáo hội. Dựa trên tất cả những gì có thể biết về một ứng viên cũng như các nhu cầu hiện tại và tương lai của ứng viên mà người đó sẽ phục vụ, Bản quyền phải phán xét rằng ứng viên sẽ có khả năng thực hiện các nghĩa vụ mục vụ của mình. Đối với những trường hợp có thể xảy ra, hoặc ít nhất là tiềm năng, không rõ ràng và lợi ích lâu dài, ứng viên nên bị loại.
Đức Giáo Hoàng Benedicto XIV đã cảnh báo vào năm 1740 rằng “trên thực tế, tiến bộ sẽ tốt hơn nếu có ít thừa tác viên hơn, nhưng vượt trội, phù hợp và hữu ích hơn nhiều thừa tác viên, những người có thể không có giá trị gì trong việc xây dựng thân thể của Chúa Kitô, tức là Giáo hội.” (Benedict XIV, ency Uhi prima, ngày 13 tháng 9 năm 1740).
2.2. Các phẩm tính của ứng viên
Để được phong chức thánh ứng viên cần có những điều cần thiết như sau:
2.2.1. Các chứng nhận
Điều 1050
Để có thể được tiến cử lên các chức thánh, đương sự buộc phải có các văn bản sau đây:
10 Giấy chứng nhận đã học xong chương trình chiếu theo quy tắc của điều l032;
20 Giấy chứng nhận đã chịu chức phó tế, nếu là những ứng sinh tiến chức linh mục;
30 Giấy chứng nhận đã chịu phép Rửa tội và phép Thêm sức, cũng như đã lãnh nhận các thừa tác vụ được nói đến ở điều 1035, nếu là những ứng sinh tiến chức phó tế; hơn nữa, giấy chứng nhận đã làm bản tuyên bố được nói đến ở điều 1036, cũng như giấy chứng nhận đã cử hành bí tích hôn nhân và giấy chứng nhận đã được sự chấp thuận của người vợ, nếu là ứng sinh chịu chức phó tế vĩnh viễn đã lập gia đình.
2.2.2. Điều tra các phẩm chất cần thiết
Điều 1051
Về việc điều tra các phẩm chất cần thiết của người nhận lãnh chức thánh, phải giữ những quy định sau đây:
10 Phải có giấy chứng nhận của giám đốc chủng viện hay giám đốc cơ sở đào tạo về các phẩm chất cần thiết để lãnh nhận chức thánh, tức là: học thuyết ngay lành, đạo đức chân thành, hạnh kiểm tốt, khả năng thi hành thừa tác vụ của ứng sinh; và còn phải có giấy chứng nhận tình trạng sức khoẻ thể lý và tâm lý, sau khí đã khám nghiệm kỹ lưỡng;
20 Để điều tra cách thích hợp, Giám mục giáo phận hoặc Bề trên cấp cao có thể dùng những phương thế khác được xem là hữu ích, tuỳ theo hoàn cảnh mỗi thời và mỗi nơi, chẳng hạn như các chứng thư, các thông báo hay các thông tin khác.
2.2.3. Giám mục giáo phận điều tra
Giám mục giáo phận có thẩm quyền phong chức cho các thành viên tu hội đời sống thánh hiến, tu đoàn đời sống Tông đồ, thuộc luật giáo phận (đ. 1019 §2). Để thực hiện quyền mình, ngài sẽ không chấp thuận phong chức cho tu sĩ một cách đơn giản chỉ với giấy giới thiệu của Bề trên tu hội hay tu đoàn.
Bề trên cần phải trình cho ngài tất cả những giấy tờ cần thiết, chứng nhận sự học hành, tu đức, sự hữu ích… của ứng viên, theo Giáo luật quy định, được nói ở trên.
Giám mục cũng có thể sử dụng những điều tra thích hợp, có thể ví dụ như sau:
1- Ủy thác cho một vài Giáo sư hoặc Giám đốc Đại chủng viện xem xét và khảo hạch ứng viên về phương diện trí thức thần học và thực hành mục vụ. Cần lưu ý đến khả năng thi hành mục vụ, vì linh mục của tu hội hay tu đoàn thường được sai đi truyền giáo hoặc được Giám mục bổ nhiệm làm cha sở, cha phó.
2- Giám mục có thể yêu cầu Bề trên tổng quyền:
a- Tường trình về nguyên tắc chọn ứng sinh theo Hiến pháp và đã thực hành như thế nào. Một tu hội hay tu đoàn giáo sĩ, đều có những nguyên tắc về tu học, được bình chọn bởi một hội đồng theo những tiêu chí, chứ không do quyền Bề trên tự do định đoạt.
b- Tường trình về con số linh mục trên tổng số thành viên và việc phân bổ các linh mục trong các giáo phận, cũng các chức vụ, nhiệm vụ của các linh mục. Căn cứ theo tường trình này Giám mục sẽ nhận ra số linh mục cần thiết mà tu hội hay tu đoàn cần có để phục vụ Giáo hội trong một số nơi cần thiết cho việc mục vụ, truyền giáo, hoạt động tông đồ...
c- Tường trình những thành quả truyền giáo, hoạt động tông đồ… đạt được do từ chức thánh linh mục. Một tu hội có nhiều linh mục nhưng không mang lại lợi ích nhiều và có thể gây ra scandal, Giám mục, tất nhiên sẽ hạn chế phong chức cho họ.
d- Tường trình những khiếm khuyết, scandal, do một số linh mục gây ra.
Giám mục, với thẩm quyền được Giáo hội trao cho mình, xem xét thực tế hoạt động mục vụ của tu hội hay tu đoàn, sự ích lợi cho Giáo hội (đ. 1025 §2) trong những hoàn cảnh, nhu cầu, để có thể khuyến khích hay hạn chế việc phong chức thánh cho tu sĩ.