ỦY NHIỆM THƯ TRUYỀN CHỨC THÁNH
Đôi khi có những khúc mắc về thẩm quyền cấp ủy nhiệm thư để truyền chức thánh cho một chủng sinh hay một tu sĩ. Ở đây chúng ta cần tìm hiểu thêm các nguyên tắc Giáo luật về ủy nhiệm thư này, lưu ý cách riêng đối với các tiến chức là các tu sĩ.
1. Khái niệm
“Ủy nhiệm thư” truyền chức phó tế, linh mục, được dịch từ tiếng La tinh “littera dimissoria”, đã được dịch là "thư giới thiệu" trong bản dịch Việt ngữ năm 2007. Thật ra, thư này không chỉ là một thư giới thiệu theo nghĩa thông thường, nhưng là một văn thư chứng nhận của Giám mục giáo phận hoặc của một Bề trên cấp cao có thẩm quyền để cho một thành viên dưới quyền mình có thể được truyền chức phó tế hay linh mục bởi một Giám mục khác. Ủy nhiệm thư này chứng nhận rằng thành viên ấy có đủ tất cả những phẩm chất mà Giáo luật đòi hỏi để lãnh nhận chức thánh, và xin Giám mục, mà thư này gởi đến, truyền chức thánh cho thành viên ấy.
Ví dụ Đức Giám mục giáo phận muốn truyền chức linh mục cho một phó tế thuộc quyền ngài, nhưng vì có trở ngại nào đó nên ngài viết ủy nhiệm thư đến một Giám mục khác tại giáo phận mình hay giáo phận khác để xin giám mục này truyền chức linh mục cho phó tế đó.
2. Thẩm quyền cấp ủy nhiệm thư cho các giáo sĩ triều
Điều 1018 quy định :
§1. Các vị sau đây có thể cấp ủy nhiệm thư cho các giáo sĩ triều:
10 Giám mục riêng được nói đến ở điều 1016.
20 Giám quản Tông toà, cũng như Giám quản giáo phận với sự chấp thuận của Ban tư vấn; Quyền Đại diện và Quyền Phủ doãn Tông toà, với sự chấp thuận của Hội đồng được nói đến ở điều 495 §2.
§2. Giám quản Giáo phận, Quyền Đại diện và Quyền Phủ doãn Tông toà không được cấp ủy nhiệm thư cho những người đã bị Giám mục giáo phận hay Đại diện hay Phủ doãn Tông toà từ chối không cho tiến chức.
2.1. Cấp ủy nhiệm thư từ Giám mục riêng
Đối với tiến chức phó tế, Giám mục riêng của tiến chức là Giám mục giáo phận tại nơi tiến chức có cư sở hoặc Giám mục giáo phận tại nơi tiến chức đã quyết định dấn thân phục vụ (đ. 1016).
Về trường hợp Giám mục giáo phận tại nơi tiến chức quyết định dấn thân phục vụ, có thể ví dụ như, một chủng sinh thuộc giáo phận A ở Việt Nam nhưng sẽ dấn thân phục vụ tại giáo phận B ở Nhật. Sau khi đã thỏa thuận với Giám mục giáo phận A, Giám mục Giáo phận B ở Nhật sẽ có được chủng sinh đó chuyển sang phục vụ và nhập tịch vào giáo phận B của mình. Giám mục giáo phận B có thẩm quyền truyền chức thánh hay viết ủy nhiệm thư nhờ một Giám mục khác truyền chức.
Khi chịu chức phó tế thì tiến chức đó nhập tịch vào giáo phận B ở Nhật, không còn thuộc giáo phận A. Giám mục riêng của phó tế là Giám mục giáo phận B (đ. 1016).
2.2. Cấp ủy nhiệm thư từ Giám quản Tông toà, Giám quản giáo phận
Giám quản Tông tòa có quyền tự mình cấp ủy nhiệm thư; còn Giám quản giáo phận, để có thể cấp ủy nhiệm thư, cần phải có sự chấp thuận của Ban Tư vấn, nghĩa là cần hơn một nửa số thành viên Ban Tư vấn bỏ phiếu chấp thuận (đ.1018§1,20).
Đối với những người đã bị Giám mục giáo phận từ chối không cho tiến chức thì Giám quản giáo phận không được quyền cấp ủy nhiệm thư, theo nguyên tắc của điều 1018§2. Tuy nhiên, khoản luật này không hạn chế quyền của Giám quản Tông tòa cấp ủy nhiệm thư đối với người đó. Vì vậy, Giám quản Tông tòa vẫn có quyền truyền chức hay cấp ủy nhiệm thư truyền chức cho ứng sinh vốn đã bị Giám mục giáo phận từ chối.
3. Thẩm quyền cấp ủy nhiệm thư cho tu sĩ
Điều 1019 quy định
§1. Bề trên cấp cao của một hội dòng giáo sĩ thuộc luật Giáo hoàng, hoặc của một tu đoàn tông đồ giáo sĩ thuộc luật Giáo hoàng cấp ủy nhiệm thư để chịu chức phó tế và chức linh mục cho những người thuộc quyền mình đã được gia nhập vào hội dòng hay tu đoàn cách vĩnh viễn hoặc dứt khoát theo hiến pháp.
§2. Việc truyền chức cho tất cả những thành viên khác thuộc bất cứ hội dòng hoặc tu đoàn nào được chi phối bởi luật dành cho các giáo sĩ triều, mọi đặc ân đã được ban cho các Bề trên đều bị thu hồi.
Điều 1019 chỉ ban cấp quyền giới thiệu cho Bề trên cấp cao của một hội dòng giáo sĩ thuộc luật Giáo hoàng, hoặc của một tu đoàn tông đồ giáo sĩ thuộc luật Giáo hoàng để cho thành viên của mình được chịu chức phó tế và chức linh mục. Hai chức Bề trên này được kể là Đấng Bản quyền, nghĩa là, vị nắm giữ ít là quyền hành pháp thông thường đối với các thành viên của mình (đ. 131§1).
Các Bề trên của các hội dòng, đan viện, hay tu đoàn khác, đều không có quyền hành pháp thông thường đối với các thành viên của mình, không có quyền cấp ủy nhiệm thư cho chịu chức. Các tu sĩ của họ, nếu muốn nhận chức thánh thì chịu chi phối bởi luật dành cho các giáo sĩ triều, nghĩa là thuộc quyền Giám mục giáo phận hay vị có thẩm quyền tương đương.
Vậy thì tu sĩ đó được chịu chức thánh dưới thẩm quyền của Giám mục nào?
Vị có thẩm quyền cho tu sĩ ấy chịu chức chính là Giám mục của giáo phận nơi có nhà mẹ hay trụ sở của tu sĩ. Vì cũng giống như tiến chức thuộc triều, tu sĩ đó có Giám mục riêng là Giám mục giáo phận tại nơi mình có cư sở (đ. 1016).
Về cư sở, thông thường, tu sĩ có cư sở tại giáo phận nơi tu hội có nhà mẹ hay trụ sở, tức là nơi có Bề trên cấp cao và ban điều hành. Lý do được giải thích từ sự đăng ký nhập của điều 103:
Những thành viên các hội dòng và của các tu đoàn tông đồ thủ đắc cư sở tại nơi toạ lạc của nhà mà họ được đăng ký nhập; họ thủ đắc bán cư sở tại nhà họ đang ở, chiếu theo quy tắc của điều 102§1.
Nơi tu sĩ được đăng ký nhập (adscribuntur), và là nơi tu sĩ ấy có cư sở, là nơi tọa lạc nhà mẹ hay trụ sở. Vì vậy, đối với tu sĩ thuộc tu hội theo luật giáo phận vị có thẩm quyền chịu chức chính là Giám mục của giáo phận nơi có nhà mẹ hay trụ sở của tu sĩ.
Trong trường hợp tu hội lại có một phân chi của tu hội ở trong nước hay ngoài nước và phân chi này cũng có một Bề trên địa phương và ban điều hành, và nếu tu sĩ đã được đăng ký nhập vào phân chi đó thì tu sĩ đó có cư sở tại nơi có nhà chính hay trụ sở của phân chi. Vị có thẩm quyền cho tu sĩ ấy chịu chức chính là Giám mục của giáo phận, nơi có trụ sở của phân chi.
Ví dụ, một tu sĩ thuộc một hội dòng A thuộc luật giáo phận có nhà mẹ tại giáo phận thành phố Hồ Chí Minh nhưng lại sống trong một cộng đoàn của hội dòng tại Thanh Hóa. Khi tuyên khấn, tu sĩ đó được ghi danh hay đăng ký (adscribuntur) nhập vào hội dòng tại giáo phận thành phố Hồ Chí Minh, chứ không tại giáo phận Thanh Hóa. Vị có thẩm quyền cho tu sĩ ấy chịu chức chính là Tổng Giám mục thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên nếu tu sĩ ấy lại ở Hoa kỳ và đăng ký nhập hội dòng tại phân chi A ở Hoa kỳ thì tu sĩ ấy thuộc quyền cho chịu chức bởi Giám mục của giáo phận bên Hoa kỳ, nơi tọa lạc trụ sở của phân chi của dòng A.
4. Không có thẩm quyền cấp “ủy nhiệm thư”
Các cha Giám đốc Đại Chủng viện, các Bề trên cao cấp của dòng mà không phải là hội dòng giáo sĩ thuộc luật Giáo hoàng, hoặc của một tu đoàn tông đồ mà không phải là giáo sĩ thuộc luật Giáo hoàng... không có thẩm quyền để cấp “ủy nhiệm thư”.
Trong nhiệm vụ đào tạo của mình, các cha Giám đốc Đại Chủng viện, các Bề trên cấp cao đó có thể tiến cử hay giới thiệu các thành viên, kèm theo các chứng nhận phẩm chất đầy đủ theo yêu cầu của Giáo luật để Giám mục giáo phận truyền chức. Giám mục giáo phận, trong trường hợp này, truyền chức hay cấp ủy nhiệm thư truyền chức dựa theo thẩm quyền và trách nhiệm của mình, chứ không dựa theo quyền của các cha Giám đốc Đại Chủng viện, hay của Bề trên cấp cao của hội dòng hay tu đoàn tông đồ.
Nói cách khác, chính Giám Mục giáo phận là vị có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trong việc truyền chức thánh, chứ không phải là cha Giám đốc Đại Chủng viện hoặc Bề trên cấp cao của tu hội đó.
5. Điều kiện để cấp ủy nhiệm thư
Điều 1020 quy định: "Không được cấp ủy nhiệm thư, nếu trước đó không có tất cả các chứng thư và văn kiện mà luật buộc phải có chiếu theo quy tắc của các điều 1050 và 1051" :
Điều 1050
Để có thể được tiến cử lên các chức thánh, đương sự buộc phải có các văn bản sau đây:
10 Giấy chứng nhận đã học xong chương trình chiếu theo quy tắc của điều l032;
20 Giấy chứng nhận đã chịu chức phó tế, nếu là những ứng sinh tiến chức Linh Mục;
30 giấy chứng nhận đã chịu phép Rửa Tội và phép Thêm Sức, cũng như đã lãnh nhận các thừa tác vụ được nói đến ở điều 1035, nếu là những ứng sinh tiến chức phó tế; hơn nữa, giấy chứng nhận đã làm bản tuyên bố được nói đến ở điều 1036, cũng như giấy chứng nhận đã cử hành bí tích hôn nhân và giấy chứng nhận đã được sự chấp thuận của người vợ, nếu là ứng sinh chịu chức phó tế vĩnh viễn đã lập gia đình.
Điều 1051
Về việc điều tra các đức tính cần thiết của người nhận lãnh chức thánh, phải giữ những quy định sau đây:
10 Phải có giấy chứng nhận của giám đốc chủng viện hay giám đốc cơ sở đào tạo về các đức tính cần thiết để lãnh nhận chức thánh, tức là: học thuyết ngay lành, đạo đức chân thành, hạnh kiểm tốt, khả năng thi hành thừa tác vụ của ứng sinh; và còn phải có giấy chứng nhận tình trạng sức khoẻ thể lý và tâm lý, sau khí đã khám nghiệm kỹ lưỡng;
20 Để điều tra cách thích hợp, Giám mục Giao Phận hoặc Bề trên cấp cao có thể dùng những phương thế khác được xem là hữu ích, tuỳ theo hoàn cảnh mỗi thời và mỗi nơi, chẳng hạn như các chứng thư, các thông báo hay các thông tin khác.
6. Sự hữu hiệu và hợp luật
Cần phân biệt giữa sự hữu hiệu và hợp luật của việc truyền chức thánh. Bất cứ có chức thánh Giám mục đều có thể truyền chức hữu hiệu cho dù không có ủy nhiệm thư truyền chức, cho dù Giám mục đó là Giám mục hiệu tòa, như Giám mục Phó, Giám mục Phụ tá, Giám mục về hưu… (đ.1012). Ngay cả khi Giám mục đang bị vạ tuyệt thông đã được tuyên bố hay tuyên kết cũng có thể truyền chức hữu hiệu (Do đó, mới có chuyện ly giáo!).
Tuy nhiên, kỷ luật của Giáo Hội sẽ phạt những ai truyền chức và chịu chức bất hợp pháp. Điều 1388 của bộ Giáo luật canh tân (đ. 1383 cũ) quy định:
§1. Giám mục nào vi phạm quy định của điều 1015, phong chức cho một người thuộc quyền một Giám mục khác mà không có ủy nhiệm thư hợp pháp, thì bị cấm truyền chức trong hạn một năm. Còn người được thụ phong tự động bị huyền chức do chính sự kiện lãnh nhận chức thánh.
§2. Người nào tiến tới các chức thánh, mà đang còn bị mắc vạ hay bị bất hợp luật chịu chức thánh, nhưng cố ý im lặng, thì ngoài những gì ấn định ở điều 1044 §2, 10, tự động bị huyền chức do chính sự kiện.
7. Dùng ủy nhiệm thư giả mạo
Trong trường hợp ủy nhiệm thư do bên chịu chức giả mạo thì sự truyền chức vẫn hữu hiệu nhưng bất hợp luật.
Nếu ủy nhiệm thư là giả mạo thì không được phép kết luận sự truyền chức vô hiệu, vì trong Bộ Giáo luật không có điều luật nào quy định minh nhiên như vậy.
Điều 10
Chỉ những luật nào minh nhiên ấn định rằng một hành vi không có hiệu lực hoặc một người không có khả năng, thì mới được xem là luật bãi hiệu hoặc luật bãi năng.
Khi ủy nhiệm thư là giả mạo thì được kể là sự truyền chức này không có ủy nhiệm thư hợp pháp. Vì vậy, người thụ phong bị vạ huyền chức tự động do chính sự kiện (đ. 1388§1). Vị Giám mục phong chức, nếu vô tình không biết là ủy nhiệm thư giả mạo thì không bị cấm truyền chức.
Người làm ra văn thư ủy nhiệm giả (đ. 1391,10) và người sử dụng văn thư ủy nhiệm giả (đ. 1391,20) sẽ bị phạt theo điều 1391.
Điều 1391
Những người sau đây phải bị phạt với những hình phạt dự liệu ở điều 1336 §§2-4, tuỳ theo mức nghiêm trọng của tội phạm:
10 Người giả mạo một tài liệu công thuộc Giáo hội, hoặc sửa đổi, hủy bỏ, cất giấu bản chính thức, hoặc sử dụng bản giả mạo hay đã bị sửa đổi;
20 Người sử dụng một tài liệu nào khác, giả mạo hay bị sửa đổi trong một sự việc thuộc Giáo hội,
30 Người khẳng định một điều nào đó là sai lạc trong một tài liệu công thuộc Giáo hội.
Ở mức độ nghiêm trọng nên khởi tố lên Bộ Giáo Lý Đức Tin. Bộ có thể trục xuất phạm nhân ra khỏi hàng giáo sĩ.