DÙNG TỪ NGỮ "TRUYỀN CHỨC", "PHONG CHỨC" LINH MỤC, "TẤN PHONG" GIÁM MỤC?
Lm. J.B. Lê Ngọc Dũng
Gần đây, xuất hiện vài bài viết, đặt vấn đề dùng từ: “truyền chức” hay “phong chức” linh mục; “truyền chức” hay “tấn phong” Giám mục?
Có tác giả cho rằng “Truyền chức linh mục mới là thuật từ đúng”, vì lý do:
“Truyền” là “cho kế thừa”, là “chuyển thông” cái bên trong của người này sang người khác.
“Truyền chức”: Chúa Giêsu là linh mục đời đời. Ngài thông truyền chức linh mục cho các tông đồ. Các tông đồ lại thông truyền cho các thế hệ kế thừa. Vì thế, khi Giám mục thông truyền chức linh mục cho các ứng viên thì gọi là “truyền chức linh mục”.
Lý giải nói trên là không đúng. Vì thực ra, Sacramentum ordinis đã được dịch một cách sai lầm là Bí tích "truyền chức", nhưng đã quen dùng. Nay lại được tác giả giải thích theo ý riêng của mình là nên dùng chữ "truyền chức". Lý giải có vẻ hợp lý nên nó được sử dụng nhiều hơn, gây nguy cơ làm cho chữ “phong chức” và “tấn phong”, là những chữ đúng đắn bị loại trừ đi. Cụ thể, trong những lần tấn phong các Giám mục gần đây, chữ “tấn phong” đã bị tránh, thay bằng chữ “truyền chức”:
- “TGP Sài Gòn: Thánh lễ truyền chức Giám mục Giuse Bùi Công Trác ngày 3-1-2023”.
- “Thánh lễ truyền chức giám mục cho Đức cha tân cử Phêrô Kiều Công Tùng”.
- Thánh Lễ truyền chức giám mục cho Đức cha tân cử Phêrô Lê Tấn Lợi - Giám mục phó Giáo phận Cần Thơ”.
1. Sacramentum ordinis: Bí tích phong chức
Sacramentum ordinis đã được người xưa dịch không đúng là Bí tích Truyền Chức Thánh. Nếu dịch đúng đắn hơn, phải được dịch là: Bí tích Phong chức thánh; Bí tích Ban chức thánh.
Vì sao vậy?
Sách Giáo Lý HTCG, ngay phần dẫn nhập vào bí tích này, đã đặt vấn đề: “Tại sao gọi là Sacramentum ordinis? Sách này đã giải thích:
“ Vào thời cổ Roma, người ta dùng từ “Ordo” để chỉ những tập thể dân sự, nhất là tập thể lãnh đạo. “Ordinatio” chỉ việc được nhận vào tập thể đó. Trong Hội Thánh có những tập thể như vậy mà truyền thống phần nào dựa trên cơ sở kinh Thánh, ngay từ xưa gọi là Taxeis (Tiếng Hy lạp) hay “Ordines” (tiếng Latin). Chẳng hạn, Phụng vụ nói đến hàng Giám mục, hàng linh mục, hàng phó tế. Nhiều nhóm khác cũng được gọi là “Ordo”: Giới dự tòng, giới vợ chồng, giới góa bụa…” (GLHTCG, 1537).
[…] Ngày nay từ Ordinatio dành riêng cho việc cử hành dành riêng cho việc cử hành bí tích gia nhập hàng Giám mục, linh mục, phó tế”. Việc này có giá trị hơn việc cộng đoàn bầu cử, chỉ định, ủy nhiệm hay cắt cử, vì ban hồng ân Thánh Thần cho phép thi hành một “quyền thánh chức” (SGLCG 1538).
Ordo, trước tiên, nói chung, có nghĩa là một hàng, một dãy, một thứ tự, thứ hạng, trật tự. Sau đó, về người, Ordo, chỉ một tầng lớp, đẳng cấp, địa vị, cấp bậc, tình trạng của người, của cá nhân hay nhóm người. Chẳng hạn, chúng ta vẫn thấy các tu sĩ, thuộc về một “dòng”, vẫn gọi là thuộc về một “ordo”, như là Ordo Sancti Benedicti (Benedictines), Ordo Servorum Mariae (Servites)… Sau cùng, Ordo cũng được dùng để chỉ cấp chỉ huy, lãnh đạo.
Rõ ràng là sách Giáo Lý HTCG không hề nói đến khái niệm “truyền” hay “chuyển thông” chức vụ linh mục hay tư tế từ Đức Giêsu Kitô. “Ordinatio” chỉ việc được nhận vào tập thể nào đó, vào một hàng ngũ.
Do đó, Sacramentum ordinis được dịch cho đúng nghĩa là: “Bí tích cho gia nhập vào hàng chức thánh” hoặc là “Bí tích đặt vào hàng chức thánh”. Vì người có chức thánh cao trọng và có thể thi hành quyền lãnh đạo, nên dịch: “Bí tích Phong chức Thánh”, “Bí tích ban chức thánh”.
2. Nếu dịch “Bí tích Truyền chức thánh” thì không đúng với chức Phó tế
Trong Giáo luật, Sacramentum ordinis gồm các chức: Giám mục, linh mục và phó tế (Can. 1009 - § 1. Ordines sunt episcopatus, presbyteratus et diaconatus). Nếu dịch là “Bí tích Truyền chức thánh”, với ý nghĩa Chúa Giêsu "truyền chức" cho, thì không hợp với chức phó tế (diaconus). Trong thực tế Giáo hội ban đầu, các diaconus (Việt Nam gọi là phó tế) chỉ là người phục vụ giúp các Tông đồ về bàn ăn. Chúa Giêsu đâu có truyền lại một điều gì thuộc về tế tự cho các diaconus.
Vì vậy, nếu cho rằng Chúa Giêsu “truyền” hay “thông truyền” chức vụ “tư tế” của mình cho diaconus (phó tế) là không đúng.
3. Sacramentum ordinis: Bí tích ban/phong chức thánh
Như trên đã phân tích, Sacramentum ordinis có nghĩa là Bí tích đặt vào hàng chức thánh hoặc bí tích ban/phong chức thánh.
Nhìn vào xã hội, người ta “phong” ban chức tước, quan quyền, khiến có cái nhìn bài bác việc “phong” chức thánh. Thực ra, Chúa Giêsu đã đặt Thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh, đặt làm chủ chăn cho Giáo hội toàn cầu (x. Ga 21,15-19), ban cho Thánh Phêrô quyền chìa khóa cửa Nước Trời. Điều này cũng có nghĩa là Ngài đã “phong” hay "ban" cho Thánh Phêrô một chức vụ cao cấp.
Một cách tương tự Ngài ban cho các Thánh Tông đồ và những người kế vị. Các chức thánh Giám mục, linh mục, phó tế là những chức vị được Thiên Chúa "đặt", “ban” cho hay “phong” cho nhờ qua thẩm quyền Giáo hội.
Điều 1008 - Do bí tích truyền chức thánh (Sacramentum ordinis) đã được Thiên Chúa thiết lập, một số trong các Kitô hữu, nhờ được ghi ấn tích không thể xoá nhoà, được đặt làm thừa tác viên có chức thánh; như thế họ được thánh hiến và được chỉ định chăn dắt đoàn dân Chúa, mỗi người tuỳ theo cấp bậc của mình, chu toàn trong tư cách của Đức Kitô (in persona Christi) là Đầu, các nhiệm vụ giáo huấn, thánh hoá và lãnh đạo.
Điều 1008, phản ảnh giáo lý Hội thánh Công giáo; các chức thánh không chỉ để thực hiện chức vụ tư tế nhưng chính là để chăn dắt đoàn dân Chúa. Gọi là "phong chức" cũng là xứng hợp.
4. Phong chức hay tấn phong?
Điều 1009 cho thấy các chức thánh được phong ban, trao ban (conferuntur)
Điều 1009 - §1. Các chức thánh là chức Giám Mục, chức Linh Mục và chức phó tế (LG 28,29 ; PO 1).
§2. Những chức ấy được trao ban (conferuntur) bằng việc đặt tay và bằng việc đọc lời nguyện thánh hiến đã được các sách phụng vụ quy định cho mỗi cấp bậc
Can. 1009 - § 1. Ordines sunt episcopatus, presbyteratus et diaconatus.
§ 2. Conferuntur manuum impositione et precatione consecratoria, quam pro singulis gradibus libri liturgici praescribunt.
4.1. Động từ Ordinare: Phong, ban chức phó tế, linh mục
Trong việc phong ban các chức này, đối với chức phó tế, linh mục, Giáo luật dùng động từ Ordinare.
Ordinare, trong bộ Giáo luật Việt ngữ của HĐGMVN, đã được dịch là “phong chức” và “truyền chức”, trong đó chữ "truyền chức" là do người xưa dịch và đã quen dùng. Trong một câu, để tránh sự lập đi lập lại cùng một từ ngữ, bản dịch Giáo luật hiện hành đã dùng cả hai từ ngữ này.
Điều 1022- Một khi đã nhận được thư giới thiệu chính thức, giám mục truyền chức (Episcopus ordinans) không được tiến hành việc phong chức (ordinationem), nếu không hoàn toàn chắc chắn về tính xác thực của thư ấy.
Điều 1383 - Giám Mục nào vi phạm quy định của điều 1015, phong chức cho một người thuộc quyền một Giám Mục khác mà không có thư giới thiệu (litteris dimissoriis ordinavit) hợp pháp, thì bị cấm truyền chức (ordinem) trong vòng một năm. Còn người được thụ phong thì tức khắc bị vạ huyền chức.
Như vậy, bởi vì đã được quen dùng và được đưa vào bản dịch Bộ Giáo luật nên chữ "truyền chức" cũng được chấp nhận, mặc dù nó không đúng nghĩa.
4.2. Consecrare in Episcopum: Tấn phong Giám mục
Tuy nhiên, Giáo luật lại dùng từ ngữ động từ Consecrare và thêm in Episcopum để chỉ việc phong chức Giám mục. Bản dịch hiện hành của HĐGMVN, đã dịch Consecrare in Episcopum là “Tấn phong Giám mục”.
Động từ “consecrare” có nghĩa là thánh hiến. Nếu dịch sát nghĩa cụm từ “Consecrare in Episcopum” thì phải dịch là “Thánh hiến trong chức Giám mục”. Các vị tiền bối, có lẽ thấy dịch sát nghĩa như vậy thì khó nghe, chuyển qua dùng từ “tấn phong” (consecrare), có vẻ trịnh trọng hơn từ ngữ “phong chức” (ordinare).
Ví dụ:
Điều 1013 - Không Giám Mục nào được phép tấn phong Giám Mục cho ai, nếu trước đó chưa có uỷ nhiệm thư của Đức Giáo Hoàng.
Can. 1013 - Nulli Episcopo licet quemquam consecrare in Episcopum, nisi prius constet de pontificio mandato.)
Điều 1012 - Thừa tác viên của bí tích truyền chức thánh là Giám Mục đã được tấn phong
Can. 1012 - Sacrae ordinationis minister est Episcopus consecratus.)
Kết luận
Từ ngữ ordinare được người xưa dịch là "Truyền chức" và được quen dùng. Một lầm lỗi thường xảy ra là ta cứ giải nghĩa nó theo mặt chữ tiếng Việt quen dùng mà không chịu tra cứu nguyên gốc của nó, khiến bị sai lạc. Trong vấn đề đang bàn, có người lại vô tình lấy cái hiểu biết sai lầm của mình để phê bình, phi bác cái đúng. Đây là một kinh nghiệm.
Mặt khác, khi dịch thuật một từ ngữ mới, cần phải cẩn thận, kẻo rồi nó trở thành quen dùng với ý nghĩa sai lệch.
X. https://gpcantho.com/moi-tuan-mot-tu-ngu-phong-chuc-hay-truyen-chuc/.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-le-truyen-chuc-giam-muc-cho-duc-cha-tan-cu-phero-kieu-cong-tung-68785
https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thanh-le-truyen-chuc-giam-muc-cho-duc-cha-tan-cu-phero-le-tan-loi-50870
Bản dịch tiếng Việt hiện hành lại tự ý viết thêm một câu vào cuối đoạn 1538 của sách GLHTCG: “Theo nghĩa này, tiếng Việt gọi là bí tích Truyền chức”. Tự ý viết thêm như vậy là trái phép. Người dịch chỉ có thể ghi chú, chứ không được thêm thắt.