Hướng dẫn xử lý lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên theo Vademecum của Vos Estis
Lm. J.B. Lê Ngọc Dũng
Tòa Thánh đã ra tập chỉ nam - Vademecum, ban hành 16-07-2020 để hướng dẫn thực hiện Tông thư Vos Estis Lux Mundi chống lại lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên.
Bản Vademecum gồm 164 điều. Ở đây xin lược ghi những điểm cần thiết.
Viết tắt được dùng trong bài này:
- VELM: Vos Estis Lux Mundi – Tông thư Vos Estis
- Vad.: Vademecum, 16-07-2020 – Chỉ Nam áp dụng Tông thư Vos Estis Lux Mundi.
- SST: Sacramentorum Sanctitatis Tutela, 30-4-2001 - Quy Tắc Về Tội Phạm Nghiêm Trọng Hơn Dành Cho Bộ Giáo Lý Đức Tin.
- CIC: Codex Iuris Canonici – Bộ Giáo luật 1983.
- GLĐT: Giáo Lý Đức Tin
Tóm tắt
- Loại tội phạm khá rộng: quan hệ tình dục, tiếp xúc cơ thể để thỏa mãn tình dục… với trẻ dưới/chưa đủ 18 tuổi hoặc "người lớn dễ bị tổn thương".
- Trình báo có thể chính thức hoặc không chính thức, văn bản hay nói miệng, cũng lưu ý đến những trình báo ẩn danh hay tin đồn.
- Sau khi nhận được trình báo, Giám mục giáo phận ban hành sắc lệnh mở một cuộc điều tra sơ bộ, nếu trình báo “saltem verisimilis” (có vẻ đúng thật nào đó). Sự lơ là của giáo quyền có thể cấu thành tội phạm cho mình.
- Bản quyền ngay từ khi bắt đầu điều tra sơ bộ, có quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa được liệt kê trong điều 1722 CIC: "cấm bị cáo thi hành thừa tác vụ thánh, hay một chức vụ và nhiệm vụ nào trong Giáo Hội, buộc hoặc cấm bị cáo không được cư ngụ ở một nơi hoặc một địa hạt nào..." (x. Vad. 58).
- Xét xử tội phạm này thuộc quyền của Bộ Giáo Lý Đức Tin, Bản quyền địa phương chỉ mở cuộc điều tra để thu thập chứng cứ và chuyển lên Bộ một bản sao xác thực của bộ hồ sơ.
- Việc điều tra bất kỳ kết quả thế nào cũng phải gởi hồ sơ đến Bộ GLĐT. Sau đó, Bản quyền sẽ phải chờ Bộ hướng dẫn xử lý vụ án như thế nào (x. Vad. 74).
- Từ khi nhận được trình báo, Bản quyền thông báo cho bị cáo được quyền đệ đơn lên Đức Giáo hoàng xin ra khỏi hàng giáo sĩ và miễn chuẩn độc thân giáo sĩ (x. Vad. 157).
Hồ sơ gởi Bộ Giáo Sĩ:
- Một khi cuộc điều tra sơ bộ đã được kết thúc, bất kể kết quả ra sao, Bản Quyền phải nhanh chóng gửi một bản sao xác thực của các tài liệu liên quan đến Bộ Giáo Lý Đức Tin.
- Đính kèm với bản sao này là bản tóm tắt (theo mẫu có sẵn của Tòa Thánh) và ý kiến đánh giá (votum) của Bản quyền về kết quả điều tra
- Chỉ gởi cho Bộ một bộ hồ sơ duy nhất; được chứng thực bởi một công chứng viên hay Lục sự (Notaio), là thành viên của Tòa Giám Mục, miễn là công chứng viên đó đã không được chỉ định thực hiện điều tra sơ bộ (x. Vad. 72).
- Bản gốc của tất cả hồ sơ phải được lưu giữ trong văn khố mật của TGM (x. Vad. 74).
- Sau khi các tài liệu của cuộc điều tra sơ bộ đã được gửi đến Bộ GLĐT, Bản quyền sẽ phải chờ thông tin liên lạc hoặc hướng dẫn về vấn đề này từ Bộ (x. Vad. 74).
-------------------------------------------
I. Điều gì tạo nên tội phạm?
- Tội phạm được đề cập bao gồm mọi hành vi phạm tội bên ngoài chống lại điều răn thứ sáu của Thập giới do một giáo sĩ phạm phải với trẻ vị thành niên (x. điều 1395 § 2 CIC; điều 6 § 1, 1º SST), (x. Vad. 1).
- Loại tội phạm khá rộng; nó có thể bao gồm, ví dụ, quan hệ tình dục (đồng thuận hoặc không đồng thuận), tiếp xúc cơ thể để thỏa mãn tình dục, phô trương, thủ dâm, sản xuất nội dung khiêu dâm, dụ dỗ mại dâm, trò chuyện và/hoặc đề xuất có tính chất tình dục, cũng có thể xảy ra thông qua các phương tiện truyền thông khác nhau (x. Vad. 2).
- Khái niệm “trẻ vị thành niên” sau ngày 30 tháng 4 năm 2001, với việc ban hành Tự sắc Sacramentorum Sanctitatis Tutela, là người dưới/chưa đủ 18 tuổi, tính tại thời điểm xảy ra sự việc (x. Vad. 3).
- Một người có thói quen sử dụng lý trí không hoàn hảo sẽ bị coi là tương đương với trẻ vị thành niên (x. điều 6 § 1, 1º SST).
- “Người lớn dễ bị tổn thương”, được mô tả là “bất kỳ người nào trong tình trạng ốm yếu, suy nhược về thể chất hoặc tinh thần, hoặc bị tước đoạt quyền tự do cá nhân mà trên thực tế, thậm chí đôi khi hạn chế khả năng hiểu biết hoặc mong muốn của họ. hoặc khả năng chống lại hành vi phạm tội” (x. điều 1 § 2, b VELM).
II. Phải làm gì khi nhận được thông tin về một tội phạm có thể xảy ra (notitia de delicto)?
a/ Thuật ngữ notitia de delicto có nghĩa là gì?
- Notitia de delicto: Trình báo tội phạm, đưa tin/thông tin tội phạm, được định nghĩa là “bất kỳ thông tin nào về một tội phạm có thể xảy ra, bất kỳ cách nào đến Đấng Bản quyền. Nó không cần phải là một khiếu nại hay trình báo chính thức” (x. Vad. 9).
- Vì vậy, trình báo này có thể từ nhiều nguồn khác nhau, không chỉ đến với Bản quyền cách chính thức bằng miệng hoặc bằng văn bản mà còn thông qua những tin đồn thu thập được, và bằng bất kỳ cách nào thích hợp khác (x. Vad. 10).
- Đôi khi, trình báo có thể đến từ một nguồn ẩn danh. Việc ẩn danh của người khiếu nại không được tự động dẫn đến niềm tin rằng những tin tức đó là sai; tuy nhiên, nên hết sức thận trọng khi xem xét loại trình báo này và không nên được khuyến khích trình báo ẩn danh (x. Vad. 11).
- Tương tự, không nên loại bỏ một cách tiên nghiệm thông báo về việc phạm tội đến từ các nguồn mà độ tin cậy thoạt nhìn có vẻ đáng nghi ngờ (x. Vad. 12).
- Đôi khi, thông báo về việc phạm tội không cung cấp các chi tiết cụ thể (tên, địa điểm, thời gian…). Ngay cả khi thông báo mơ hồ và không xác định, nó cần phải được đánh giá đầy đủ, càng nhiều càng tốt, điều tra với sự chú ý thích đáng (x. Vad. 13).
2. Khi nhận được trình báo giáo quyền phải làm những việc gì?
- Sau khi nhận được trình báo, giáo quyền mở một cuộc điều tra sơ khởi, nếu trình báo có vẻ đúng thật nào đó (saltem verisimilis). Nếu nó không có cơ sở gì cả thì có thể quyết định không điều tra, tuy nhiên, hãy cẩn thận lưu giữ tài liệu cùng với ghi chú giải thích lý do cho quyết định (x. Vad. 16).
- Chỉ trong trường hợp rất rõ ràng mới được ra quyết định cho rằng trình báo là không xác thực; ví dụ, vào thời điểm phạm tội người đó chưa phải là một giáo sĩ; hoặc nạn nhân bị cáo buộc không phải là trẻ vị thành niên; hoặc nếu có một sự thật được biết là người bị báo cáo không thể có mặt tại hiện trường vụ án (x. Vad. 18). Tuy nhiên, ngay cả trong những trường hợp này, Bản quyền nên thông báo cho Bộ Giáo lý Đức tin về trình báo và về quyết định hoãn cuộc điều tra trước đó do thiếu tính xác thực rõ ràng (x. Vad. 19).
- Trong trường hợp không có tội phạm trẻ vị thành niên, nhưng đương sự lại có hành vi không phù hợp và thiếu thận trọng, nếu Bản quyền thấy cần thiết để bảo vệ lợi ích chung và để tránh tai tiếng, nên thực hiện các biện pháp khác có tính chất hành chính đối với người bị báo cáo (ví dụ, giới hạn lại các tác vụ), hoặc áp đặt các biện pháp các biện pháp dược hình nêu trong điều luật 1339 CIC, để ngăn ngừa tội phạm (x. điều 1312 § 3 CIC), (x. Vad. 20).
- Có thể xảy ra trường hợp trình báo được trực tiếp gởi đến Bộ Giáo lý Đức tin, không qua trung gian của Đấng Bản Quyền. Trong trường hợp đó, Bộ có thể yêu cầu Bản quyền tiến hành điều tra, hoặc Bộ tự thực hiện (x. Vad. 24).
- Cần lưu ý rằng ở giai đoạn này cần phải giữ bí mật. Tuy nhiên, không được áp đặt nghĩa vụ phải giữ im lặng đối với bất kỳ ai báo cáo, đối với người tuyên bố đã bị xúc phạm và đối với các nhân chứng về các sự kiện (x. Vad. 30).
3. Quá trình điều tra sơ bộ diễn ra như thế nào?
a) Điều tra sơ bộ (l’indagine previa) là gì"?
- Mục đích của điều tra sơ bộ không phải là để đạt được sự chắc chắn luân lý về tội phạm đã xảy ra. Nó phục vụ:
a/ cho việc thu thập dữ liệu hữu ích để đào sâu trình báo về tội phạm; và
b/ để công nhận tính xác thực của nó, tức là để xác định cái được gọi là fumus delicti, tức là có đủ cơ sở pháp lý và trên thực tế để xem xét lời buộc tội có thể xảy ra (x. Vad. 33).
[Ghi chú:
- Điều tra sơ bộ không phải là để đạt được sự chắc chắn luân lý về tội phạm đã xảy ra.
- “fumus delicti” có nghĩa là có mùi tội phạm, tương tự với có khói ắt có lữa. Vì vậy, tuy không có bằng chứng tai nghe mắt thấy như thu âm, ghi hình, tội phạm vẫn có thể bị quy kết.
- Phạm nhân, không nên tin rằng mình sẽ không bị quy tội vì không có đủ chứng cớ rõ rêt]
- Cuộc điều tra sơ bộ cần phải thu thập thông tin chi tiết hơn so với trình báo về các sự kiện, hoàn cảnh và khả năng quy trách nhiệm của chúng. Trong giai đoạn điều tra sơ khởi này, không cần thiết phải tiến hành thu thập tỉ mỉ bằng chứng (lời khai, báo cáo của chuyên gia). Nó sẽ cần thiết thu thập tỉ mỉ tùy vào thủ tục tố tụng hình sự nào đó nếu có tiếp theo (x. Vad. 34).
- Điều quan trọng là tái cấu trúc, càng nhiều càng tốt, các sự kiện làm cơ sở cho lời buộc tội, số lượng và thời gian thực hiện hành vi phạm tội, hoàn cảnh của họ, thông tin cá nhân của các nạn nhân bị cáo buộc, thêm đánh giá ban đầu về bất kỳ thể chất, tinh thần và đạo đức (x. Vad. 34).
- Các tội danh khác có thể được quy cho bị cáo cũng sẽ được thêm vào và các sự kiện có vấn đề nổi lên từ hồ sơ tiểu sử sẽ được nêu ra. Có thể nên thu thập lời khai và tài liệu, thuộc bất kỳ loại và nguồn gốc nào (kể cả kết quả điều tra hoặc xét xử do cơ quan dân sự tiến hành), có thể thực sự hữu ích trong việc chứng minh và xác nhận tính xác thực của lời buộc tội. Có thể chỉ ra các tình tiết miễn trừ, giảm nhẹ hoặc tăng nặng theo quy định của Giáo luật (x. Vad. 34).
- Nếu trong quá trình điều tra sơ bộ, các trình báo về tội khác được phát hiện thì chúng sẽ được điều tra thêm trong cùng một cuộc điều tra (x. Vad. 35).
- Việc điều tra sơ bộ có thể được bỏ qua trong trường hợp phạm tội rõ ràng và chắc chắn (ví dụ, có những các tài liệu tố tụng dân sự chứng minh rõ ràng hoặc lời thú tội của chính giáo sĩ) (x. Vad. 37).
b) Những hành vi pháp lý nào phải được thực hiện để tiến hành điều tra sơ bộ?
- Nếu Đấng Bản Quyền thấy cần chọn một người thích hợp để tiến hành cuộc điều tra, thì ngài phải chọn người đó theo các tiêu chuẩn được nêu trong điều 1428 §§ 1-2 CIC (x. Vad. 38). Nếu có một thủ tục tố tụng hình sự diễn ra sau đó, người này không thể thực hiện chức năng thẩm phán (x. Vad. 39).
- Theo điều 1719 CIC Bản quyền phải ban hành sắc lệnh mở cuộc điều tra sơ bộ, trong đó ngài chỉ định người tiến hành cuộc điều tra, trong văn bản có cho biết rằng người này có các quyền hạn được đề cập trong điều 1470. 1717 § 3 CIC. (x. Vad. 40).
- Nên bổ nhiệm một linh mục lục sự (notaio) còn gọi là công chứng viên (x. điều 483 § 2 CIC) để giúp người tiến hành điều tra, với mục đích bảo đảm tính trung thực các tài liệu (x. điều 1437 § 2 CIC), (x. Vad. 41).
c) Những công việc bổ sung nào có thể hoặc phải được thực hiện trong quá trình điều tra sơ bộ?
- Phải bảo vệ thanh danh của những người liên quan (bị cáo, nạn nhân, nhân chứng), để không tạo ra thành kiến, trả thù hoặc phân biệt đối xử. Tuy nhiên, nếu do đó, lợi ích chung đang gặp nguy hiểm, thì việc phổ biến tin tức về sự tồn tại của một lời buộc tội không nhất thiết cấu thành một hành vi vi phạm thanh danh (x. Vad. 44).
- Ở giai đoạn này vẫn chưa thể xác định được tội phạm của bị cáo, nên phải hết sức cẩn thận tránh bất kỳ lời khẳng định nào nhân danh Giáo hội, trong các giao tiếp công khai hoặc riêng tư (x. Vad. 46).
- Các báo cáo, xét xử và quyết định liên quan đến các tội phạm phải được giữ bí mật văn phòng. Tuy nhiên, người khiếu nại vẫn có thể công khai hành động. Hơn nữa, vì không phải tất cả các hình thức trình báo về tội phạm đều là tố cáo tội, người ta có thể đánh giá khi nào thì coi mình bị ràng buộc phải giữ bí mật, nhưng luôn ghi nhớ sự tôn trọng thanh danh (x. Vad. 47).
- Nếu cần lắng nghe một trẻ vị thành niên hoặc một người tương đương với trẻ vị thành niên, thì tuân theo các quy tắc dân sự của quốc gia và cách thức phù hợp với độ tuổi và tình trạng, ví dụ như cho phép trẻ vị thành niên đi cùng với một người lớn mà trẻ tin tưởng và tránh việc anh ta tiếp xúc trực tiếp với bị cáo (x. Vad. 51).
- Trong giai đoạn điều tra sơ bộ, một nhiệm vụ đặc biệt tế nhị thuộc về Bản quyền là quyết định xem có nên thông báo cho bị cáo về việc đó hay không và khi nào. (x. Vad. 52). Đối với nhiệm vụ này, cần phải đánh giá tất cả các thiện ích đang bị đe dọa: bảo vệ danh tiếng tốt của những người liên quan, nguy cơ gây ảnh hương đến cuộc điều tra, gây scandal cho tín hữu, lợi thế của việc thu thập chứng cứ (x. Vad. 53).
- Nếu quyết định đặt câu hỏi cho bị cáo, vì đây là giai đoạn trước khi xét xử, nên không bắt buộc phải chỉ định người bào chữa chính thức. Tuy nhiên, nếu cho là phù hợp, người ấy có thể tự chọn cho mình một người bảo trợ. Không đòi buộc bị cáo tuyên thệ (x. Vad. 54).
- Với mục đích bảo vệ thanh danh những người liên quan và bảo vệ công ích, cũng như để tránh các sự kiện khác, (ví dụ: sự lan rộng scandal, nguy cơ che giấu bằng chứng trong tương lai, kích hoạt các mối đe dọa hoặc hành vi khác nhằm đánh lạc hướng nạn nhân khỏi việc thực hiện các quyền của mình, bảo vệ các nạn nhân có thể khác) Bản quyền ngay từ khi bắt đầu điều tra sơ bộ, có quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa được liệt kê trong điều 1722 CIC (x. Vad. 58).
- Áp dụng một hay nhiều hơn, những biện pháp phòng ngừa được liệt kê ở điều 1722 CIC: “cấm bị cáo thi hành thừa tác vụ thánh, hay một chức vụ và nhiệm vụ nào trong Giáo Hội, buộc hoặc cấm bị cáo không được cư ngụ ở một nơi hoặc một địa hạt nào, và cũng có thể cấm người đó không được công khai tham dự Thánh Thể; tất cả các biện pháp này phải được thu hồi khi không còn lý do và đương nhiên chấm dứt khi việc tố tụng hình sự kết thúc” (x. Vad. 59).
- Bản quyền có thể áp đặt các biện pháp kỷ luật khác, theo quyền hạn của mình (x. Vad. 60).
d) Các biện pháp phòng ngừa được áp dụng như thế nào?
- Trước hết, cần phải nói rằng biện pháp phòng ngừa không phải là một hình phạt, mà là một hành vi hành chính có mục đích được mô tả trong điểu 1722 CIC. Cần giải thích rõ ràng cho bên bị nghi ngờ rằng biện pháp này không có tính chất hình sự, kẻo họ nghĩ rằng mình đã bị kết án và bị trừng phạt ngay từ đầu. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng các biện pháp phòng ngừa phải được hủy bỏ nếu lý do của chúng chấm dứt và bản thân chúng chấm dứt khi kết thúc quá trình hình sự cuối cùng (x. Vad. 61).
- Nên tránh lựa chọn đơn giản là chuyển chức vụ, chuyển nơi ở hoặc nhà dòng vì tin rằng việc đưa ông ta ra khỏi nơi bị cáo buộc phạm tội hoặc khỏi các nạn nhân bị cáo buộc là một giải pháp thỏa đáng cho vụ án (x. Vad. 63).
- Các biện pháp phòng ngừa được áp đặt bằng một mệnh lệnh riêng (precetto singolare) được thông báo hợp pháp (x. Vad. 64).
- Khi quyết định sửa đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp phòng ngừa, cần phải thực hiện điều đó bằng một sắc lệnh cụ thể được thông báo hợp pháp, trừ khi tại thời điểm đó, chúng chấm dứt theo quy định của pháp luật (x. Vad. 65).
đ) Làm gì để kết thúc điều tra sơ bộ?
- Để đảm bảo công bằng và thực thi công lý, khuyến nghị rằng thời hạn của cuộc điều tra sơ bộ phù hợp với mục đích của cuộc điều tra, đó là đánh giá tính hợp lý của trình báo phạm tội và từ đó đánh giá sự tồn tại của tội (fumus delicti). Sự chậm trễ vô cớ trong cuộc điều tra sơ bộ có thể cấu thành một hành động chểnh mãng (negligenza) của giáo quyền (x. Vad. 66).
- Nếu cuộc điều tra được thực hiện bởi một người do Bản quyền bổ nhiệm chỉ định, người đó phải giao cho Bản quyền tất cả các tài liệu của cuộc điều tra cùng với đánh giá của chính mình về kết quả điều tra (x. Vad. 67).
- Bản quyền phải ra một “sắc lệnh” kết thúc cuộc điều tra sơ bộ (x. Vad. 68).
- Một khi cuộc điều tra sơ bộ đã được kết thúc, và bất kể kết quả ra sao, Bản Quyền phải nhanh chóng gửi một bản sao xác thực của các tài liệu liên quan đến Bộ Giáo Lý Đức Tin. Đính kèm với bản sao này là bản tóm tắt (theo mẫu có sẵn của Tòa Thánh) và ý kiến đánh giá (votum) của Bản quyền về kết quả điều tra và đưa ra bất kỳ đề xuất nào có thể có về cách tiến hành (ví dụ, đề nghị một thủ tục hình sự là thích hợp và thuộc loại nào; đề nghị cho rằng hình phạt mà cơ quan dân sự áp dụng là đã đủ; đề nghị việc áp dụng các biện pháp hành chính của Đấng Bản quyền là thích hợp hơn; nại đến thời hiệu của tội phạm hoặc áp dụng một sự miễn trừ nào đó đối với tội phạm), (x. Vad. 69).
- Trong trường hợp Bề trên cấp cao (Superiore maggiore, Vd. Bề trên tỉnh dòng…) tiến hành cuộc điều tra sơ bộ, thì ngài cũng nên gửi một bản sao hồ sơ điều tra đến Bề trên Tổng quyền hay vị Điều hành tối cao (Moderatore supremo) hoặc cho Giám mục giáo phận nếu tu hội hoặc Tu đoàn Đời sống Tông đồ thuộc luật giáo phận, vì họ là những nhân vật mà Bộ thường sẽ liên lạc sau này. Đổi lại, vị Điều hành tối cao sẽ gửi ý kiến đánh giá (votum) của mình tới Bộ GLĐT (x. Vad. 70).
- Nếu Bản quyền tiến hành điều tra sơ bộ không phải là Bản quyền nơi xảy ra tội phạm bị cáo buộc, thì Bản quyền tiến hành điều tra cần thông báo kết quả điều tra cho Bản quyền nơi tội phạm bị cáo buộc (x. Vad. 71).
- Chỉ gởi cho Bộ một bộ hồ sơ duy nhất; được chứng thực bởi một công chứng viên hay Lục sự (Notaio), là thành viên của Tòa Giám Mục, miễn là công chứng viên đó đã không được chỉ định thực hiện điều tra sơ bộ (x. Vad. 72).
- Bản gốc của tất cả hồ sơ phải được lưu giữ trong văn khố mật của TGM (x. Vad. 74).
- Sau khi các tài liệu của cuộc điều tra sơ bộ đã được gửi đến Bộ GLĐT, Bản quyền sẽ phải chờ thông tin liên lạc hoặc hướng dẫn về vấn đề này từ Bộ (x. Vad. 74).
- Trong thời gian chờ đợi, nếu có các yếu tố khác liên quan hoặc cáo buộc mới xuất hiện, hãy gửi đến Bộ GLĐT càng sớm càng tốt. Nếu thấy việc mở lại cuộc điều tra sơ bộ có vẻ hữu ích, thì thông báo cho Bộ ngay lập tức (x. Vad. 75).
IV. Bộ GLĐT có thể làm gì vào thời điểm này?
- Bộ GLĐT có thể: lưu trữ vụ án; yêu cầu đào sâu điều tra sơ bộ; áp dụng các biện pháp kỷ luật phi hình sự, thường bằng mệnh lệnh hình sự (precetto penale); áp đặt các dược hình hoặc thống hối, hoặc nhắc nhở hoặc khiển trách; mở phiên tòa hình sự; xác định những cách chăm sóc mục vụ khác. Quyết định của Bộ được thông báo cho Bản quyền, với các hướng dẫn đầy đủ để đưa nó vào hiệu lực (x. Vad. 77).
a/ Thế nào là biện pháp kỷ luật phi hình sự (misure disciplinari non penali) ?
- Các biện pháp kỷ luật phi hình sự là các hành vi hành chính riêng biệt, mà theo đó bị cáo được ra lệnh làm hoặc không làm một việc gì đó. Trong những trường hợp này, áp đặt hạn chế thi hành chức vụ, như là buộc phải cư trú tại một nơi cụ thể. Đây không phải là những hình phạt, mà là những biện pháp nhằm đảm bảo và bảo vệ công ích và kỷ luật của Giáo hội, đồng thời để tránh gương xấu cho các tín hữu (x. Vad. 78).
b/ Thế nào là mệnh lệnh hình sự (precetto penale) ?
- Các biện pháp này thường là áp đặt những hình phạt theo điều luật 1319 § 1 (x. Vad. 79).
Điều 1319 §1. Do quyền lãnh đạo, một người có thể áp đặt những mệnh lệnh ở toà ngoài đến mức độ nào, thì bằng mệnh lệnh cũng có thể dùng những hình phạt nhất định để ngăm đe đến mức độ ấy, trừ những thục hình vĩnh viễn.
- Đối với một mệnh lệnh hình sự, văn bản phải chỉ ra rõ ràng hình phạt đang đe dọa sẽ áp đặt nếu có vi phạm các biện pháp hình sự đã áp đặt đối với người ấy (x. Vad. 80).
- Theo điều luật. 1319 § 1 CIC, không thể áp đặt các hình phạt vĩnh viễn/chung thân; hơn nữa, hình phạt phải được xác định rõ ràng (x. Vad. 81).
- Tội nhân có thể khiếu nại chống lại mệnh lệnh hình sự trong khuôn khổ Giáo luật (x. Vad. 82).
c) Thế nào là dược hình (rimedi penali), thống hối (ripensioni), khiển trách trước công chúng?
- Để biết định nghĩa về dược hình (rimedi penali), thống hối (ripensioni), khiển trách trước công chúng biện pháp trừng phạt, đền tội và khiển trách công khai, xem cann. 1339 và 1340 § 1 CIC (x. Vad. 83).
V. Các quyết định có thể có trong tố tụng hình sự là gì?
- Các quyết định khi kết thúc phiên tòa hình sự, dù là tư pháp hay ngoài tư pháp, có thể dẫn đến một trong ba loại kết quả sau:
- Xác nhận tội ("constat"), nếu có chắc chắn luân lý rằng tội của bị cáo được thiết lập liên quan đến hành vi phạm tội được gán cho anh ta. Trong trường hợp này, quyết định phải chỉ ra cụ thể loại hình phạt giáo luật nào được áp dụng hoặc tuyên bố.
- Xác nhận không tội (“constat de non”) , nếu có chắc chắn luân lý rằng bị cáo vô tội, vì không có hành vi phạm tội nào được thực hiện, bị cáo không phạm tội, hành vi phạm tội không bị luật pháp coi là tội phạm hoặc đã được thực hiện bởi một người không thể bị quy trách tội.
- Không xác nhận tội ("non constat"), nếu không thể đạt được sự chắc chắn luân lý liên quan đến tội của bị cáo, do thiếu bằng chứng hoặc bằng chứng không đủ hoặc mâu thuẫn rằng hành vi phạm tội đã được thực hiện, hoặc hành vi phạm tội được thực hiện bởi một người không thể quy trách tội.
Quyết định bằng bản án hoặc bằng sắc lệnh phải chỉ ra nó đề cập đến thể loại nào trong ba thể loại này, để rõ ràng là "constat", hay "constat che non", hay "non constat" (x. Vad. 84).
VI. Những thủ tục tố tụng hình sự có thể?
- Theo luật, có thể có ba thủ tục hình sự: thủ tục tố tụng tư pháp; thủ tục tố tụng hình sự ngoài tư pháp; thủ tục được giới thiệu bởi điều 21 § 2, 20. SST (x. Vad. 85), được dành riêng cho các trường hợp rất nghiêm trọng, kết thúc bằng quyết định trực tiếp của Đức Giáo hoàng và trong mọi trường hợp quy định rằng, ngay cả khi việc phạm tội rõ ràng, bị cáo được đảm bảo thực hiện quyền bào chữa (x. Vad. 86).
- Về thủ tục xét xử hình sự, xin tham khảo các quy định cụ thể của Luật, cả các Bộ luật tương ứng và các điều 15-8, 18-19, 21 § 1, 22-31 SST (x. Vad. 87).
- Thủ tục tố tụng hình sự có thể diễn ra trong Bộ GLĐT hoặc được ủy thác cho tòa án cấp dưới (x. Vad. 89).
a/ Thế nào là xét xử hình sự ngoại tư pháp?
- Thủ tục tố tụng hình sự ngoài tư pháp, đôi khi được gọi là "thủ tục hành chính", là một hình thức tố tụng hình sự làm giảm bớt các thủ tục dự kiến trong quá trình tư pháp, nhằm đẩy nhanh quá trình xét xử (x. Vad. 91). Bộ GLĐT có thể mặc nhiên hoặc theo yêu cầu của Bản quyền, quyết định có nên tiến hành theo cách này hay không (x. Vad. 92), có thể tự mình hay giao cho cấp dưới tiến hành (x. Vad. 93).
b/ Xét xử hình sự ngoài tư pháp diễn ra như thế nào?
- Khi Bản quyền nhận nhiệm vụ thực hiện một quy trình hình sự ngoài tư pháp từ Bộ GLĐT, thì trước hết, Bản quyền phải quyết định xem có nên đích thân chủ trì quy trình hay chỉ định người đại diện của mình. Ngài cũng phải chỉ định hai Phụ thẩm (Assessori), sẽ hỗ trợ ngài hoặc người được ủy quyền trong giai đoạn đánh giá. Cũng cần phải bổ nhiệm một Lục sự (Notaio hay Công chứng viên), không bổ nhiệm Công tố viên (Promotore di giustizia) (x. Vad. 95).
- Việc bổ nhiệm nói trên được thực hiện thông qua một sắc lệnh cụ thể. Các vị phải thề trung thành thực hiện nhiệm vụ đã nhận, tuân thủ bí mật. Việc tuyên thệ phải được ghi vào biên bản (x. Vad. 96).
- Phải bắt đầu tiến trình, với sắc lệnh triệu tập bị cáo. Sắc lệnh này phải có: chỉ dẫn rõ ràng về người được triệu tập, về địa điểm và thời gian mà anh ta phải hiện diện, về mục đích mà anh ta được triệu tập, tức là thụ lý vụ kiện (mà văn bản của sắc lệnh sẽ đề cập ngắn gọn) và bằng chứng tương ứng (không cần thiết phải liệt kê trong sắc lệnh), và thực hiện quyền bào chữa của mình (x. Vad. 97).
- Dù luật không dự liệu rõ ràng nên có luật sư/người biện hộ hỗ trợ, do bị cáo chọn hoặc được chỉ định mặc nhiên. Tên của luật sư phải được cung cấp cho Bản quyền trước phiên vụ thông báo các lời buộc tội (sessione di notifica delle accuse) và bằng chứng, cùng với giấy ủy quyền cho luật sư theo điều 1484 § 1 CIC, để kiểm tra các điều kiện cần thiết theo yêu cầu của can. 1483 CIC (x. Vad. 98).
- Nếu bị cáo từ chối hoặc không xuất hiện, Bản quyền (hoặc người thụ ủy) sẽ đánh giá xem có triệu tập lần thứ hai hay không (x. Vad. 99).
- Nếu bị cáo từ chối hoặc không xuất hiện trong lần triệu tập đầu tiên hoặc lần thứ hai, anh ta phải được thông báo rằng phiên tòa cũng sẽ được tiến hành. Điều này đã có thể cho anh ta biết tại thời điểm triệu tập đầu tiên. Nếu bị cáo đã bỏ bê hoặc từ chối xuất hiện, vấn đề sẽ được lập liên bản và tiến hành ad ulteriora (x. Vad. 100).
- Vào ngày và giờ của phiên họp công bố lời buộc tội và bằng chứng, hồ sơ chứa các hành vi điều tra sơ bộ sẽ được đưa cho bị cáo và người bào chữa cho họ, nếu họ có mặt. Nghĩa vụ tôn trọng bí mật của văn phòng nên được công bố (x. Vad. 101).
- Cần đặc biệt chú ý đến thực tế là, nếu vụ án liên quan đến bí tích Sám hối, thì phải tôn trọng điều 24 SST, quy định rằng tên của nạn nhân không được tiết lộ cho bị cáo trừ khi người tố cáo đã đồng ý rõ ràng khác (x. Vad. 102).
- Các hội thẩm không bắt buộc phải tham gia phiên thông báo. (x. Vad. 103).
- Việc thông báo về lời buộc tội và bằng chứng được thực hiện nhằm mục đích giúp bị cáo có cơ hội tự bào chữa (x. Vad. 104).
- Việc bào chữa có thể diễn ra theo hai cách: a/ trình bày tại một phiên họp đặc biệt có chữ ký của tất cả những người có mặt (nhưng, đặc biệt, bởi: Bản quyền hoặc Người được ủy quyền; bị cáo và có thể là luật sư; Lục sự); b/ trình bày dạng văn bản, do Bản quyền ấn định ấn định một thời hạn hợp lý để đệ trình (x. Vad. 109).
- Nên nhớ kỹ rằng, chiếu theo điều luật. 1728 § 2 CIC, bị cáo không bắt buộc phải thú nhận tội phạm, cũng như không thể áp đặt quyết định tuyên thệ đối với anh ta (x. Vad. 110).
- Việc bào chữa có thể sử dụng mọi biện pháp hợp pháp, chẳng hạn như yêu cầu nghe nhân chứng từ một phía, hoặc trưng ra các tài liệu và báo cáo giám định (x. Vad. 111).
- Vì đây là phiên tòa hình sự nên người khiếu nại không có nghĩa vụ phải can thiệp vào giai đoạn xét xử. Lời buộc tội được tiến hành bởi Bản quyền hoặc bởi người ngài ủy quyền (x. Vad. 114).
c/ Theo CIC, một phiên tòa hình sự ngoại tư pháp được kết thúc như thế nào?
- Nếu tội phạm được xác lập một cách chắc chắn, Bản quyền hoặc người được ủy quyền của ngài (x. Đ. 1720, 3º CIC) phải ban hành một sắc lệnh kết thúc quá trình và áp đặt hình phạt, chế tài hình sự hoặc đền tội mà ngài cho là phù hợp nhất để đền bù tội lỗi, tái lập công lý và sửa đổi bên có tội (x. Vad. 119).
- Bản quyền nếu có ý định nếu có ý định áp dụng hình phạt chung thân phải được Bộ GLĐT ủy quyền trước (x. Vad. 120).
- Danh sách các hình phạt chung thân chỉ được tìm thấy trong giáo luật 1336 § 1 CIC, cùng với các cảnh báo có trong các giáo luật 1337 và 1338 CIC. (x. Vad. 121).
- Đây không là thủ tục xử án tư pháp nên Bản quyền không ra một Bản án (sentenza) nhưng ra một Sắc lệnh (Decreto), trong đó phải trình bày ít là tóm tắt lý do của quyết định và có chữ ký của Lục sự (x. Vad. 123-124).
IX. Có điều gì bạn nên luôn luôn ghi nhớ?
- Từ khi có những trình báo về tội (notitia de delicto), bị cáo có quyền đệ đơn xin được miễn chuẩn tất cả các nghĩa vụ liên quan đến bậc giáo sĩ, kể cả việc sống độc thân (= xin ra khỏi hàng giáo sĩ) và đồng thời, khỏi bất kỳ lời khấn tu trì nào. Đấng Bản Quyền phải thông báo rõ ràng cho anh ta về quyền này. Nếu giáo sĩ quyết định sử dụng khả năng này, thì phải viết một bản thỉnh cầu thích hợp, gửi đến Đức Thánh Cha, tự giới thiệu và cho biết ngắn gọn những lý do mà mình xin miễn chuẩn. Đơn thỉnh cầu phải được ghi ngày tháng rõ ràng và có chữ ký của người thỉnh cầu. Nó sẽ được truyền đến Bộ GLĐT, cùng với ý kiến (votum) của Đấng Bản Quyền. Đổi lại, Bộ GLĐT sẽ chuyển nó và – nếu Đức Thánh Cha chấp nhận đơn thỉnh cầu – sẽ chuyển bản phúc chiếu ban miễn chuẩn đến Bản quyền, yêu cầu ngài thông báo hợp pháp cho người thỉnh cầu (x. Vad. 157).
- Kháng cáo lên Bộ GLĐT phải xác định rõ ràng yêu cầu và có các lý do pháp lý và trên sự kiện mà nó dựa vào. Người kháng cáo phải luôn luôn sử dụng một luật sư (x. Vad. 158).