QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC HÔN PHỐI ÁP DỤNG CHO TOÀN GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM, có thêm ghi chú.

Thứ sáu - 19/04/2024 23:24
Ngày 17 tháng 4 năm 2024, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam có ra những quy định về thủ tục hôn phối áp dung trong toàn thể Giáo Hội Việt Nam. Vì đây là những quy định dựa trên nền tảng bộ Giáo luật 1983, tôi mạn phép được ghi thêm những quy chiếu Giáo luật, đặt trong ngoặc đơn và một số ghi chú cần thiết.
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC HÔN PHỐI
ÁP DỤNG CHO TOÀN GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM

(Thêm phần ghi chú của Lm J.B. Lê Ngọc Dũng) 
 
Để giúp các mục tử và các đôi bạn chu toàn thủ tục hôn phối theo giáo luật và phù hợp với thực tế, trong Hội nghị kỳ 1/2024 tại Trung tâm Mục vụ Giáo phận Vĩnh Long, Hội đồng Giám mục Việt Nam ban hành quy định về thủ tục hôn phối áp dụng cho toàn Giáo Hội tại Việt Nam:

I. Năng quyền chứng hôn và ủy quyền chứng hôn

Điều 1
Đấng Bản quyền địa phương và cha sở, do chức vụ, có năng quyền chứng hôn thành sự trong giới hạn địa hạt của mình (x. GL 1109).
Muốn chứng hôn ngoài địa hạt của mình, cần phải được sự ủy quyền của cha sở nơi mà đôi bạn có ý định xin cử hành (x. GL 1108§1; 1111).
Ghi chú:
Linh mục phó tế không có năng quyền chứng hôn, chứng hôn bất thành, trừ khi được ủy quyền. Cha sở, cha phó, linh mục, phó tế để chứng hôn thành sự ở một giáo xứ A nào đó đều phải có sự ủy quyền của cha sở của giáo xứ A đó. Vì năng quyền chứng thuộc về cha sở nơi cử hành kết hôn (năng quyền tòng địa). Quan niệm cha sở của bên nam hay bên nữ ủy quyền cho cha sở nơi cử hành chứng hôn là không đúng. Nó sẽ trái  ngược, nếu cha sở (không phải là của nơi cử hành kết hôn) không có năng quyền lại đi ủy quyền cho cha sở (của nơi cử hành kết hôn) có năng quyền.

Điều 2
Việc uỷ nhiệm năng quyền chứng hôn, để hữu hiệu, phải được minh nhiên ban cho những người nhất định. Nếu là uỷ quyền riêng biệt, thì phải xác định rõ đôi hôn nhân nào; còn nếu là uỷ quyền tổng quát, thì phải ban bằng văn bản mới hiệu lực (x. GL 1111).
Ghi chú: 
Nếu cha sở chia phiên cho cha phó theo số lần hay theo số ngày mà bất kể (= không xác định rõ) đó là đôi hôn nhân nào thì được coi là ủy quyền tổng quát, phải ban bằng văn bản. Nếu không ban bằng văn bản trong trường hợp này, chứng hôn bất thành. Nếu đã nhầm lẫn hay không biết thì được bù năng quyền, những hôn nhân đó thành sự. Tuy nhiên, nếu đã đọc biết thì Giáo hội không bù nữa, chứng hôn bất thành (x. GL 144§2).

II. Quyền chứng hôn và nhiệm vụ chứng hôn của cha sở

Điều 3
Để cha sở chứng hôn hợp luật, phải có ít là một trong đôi bạn đã cư ngụ trong giáo xứ của mình được một tháng. Nếu không, cha sở phải xin phép Đấng Bản quyền riêng hoặc cha sở riêng của một trong đôi bạn (x. GL 1115). Trong trường hợp này, Đấng Bản quyền riêng hoặc cha sở riêng chỉ “cho phép” chứ không “ủy quyền”.
Ghi chú:
Nếu không “có phép” việc chứng hôn bất hợp luật nhưng vẫn thành sự.

Điều 4
Khi một trong đôi bạn xin được kết hôn trong giáo xứ mà người ấy có cư sở hay thường trú, cha sở buộc phải chứng hôn cho họ, không được từ chối, vì chứng hôn là một trong những nhiệm vụ được ủy thác đặc biệt cho cha sở (x. GL 530, 40)
Khi một người xin kết hôn trong giáo xứ nơi họ không có cư sở, chỉ có bán cư sở hoặc chỉ mới cư ngụ được một tháng, cha sở nên chấp nhận chứng hôn cho họ.
Để chứng hôn cho người không có cư sở hay bán cư sở ở bất cứ nơi nào, cần phải có phép của Đấng Bản quyền địa phương nơi cử hành kết hôn (x. GL 1070 §1, 10).
Ghi chú:
Nói cách khác, cha sở cần xin phép Bản quyền địa phương để chứng hôn cho người phiêu cư đang ở trong địa hạt của mình.

Điều 5
Cư sở hay bán cư sở của giáo dân không tùy thuộc vào sự đăng ký - nhập vào một giáo xứ, nhưng tùy thuộc “ý định” hoặc “thời gian” cư ngụ của họ (x. GL 102). Việc không đăng ký vào giáo xứ hoặc việc vắng mặt quá lâu khỏi giáo xứ không phải là lý do để cha sở phủ nhận việc thủ đắc cư sở hoặc từ chối nghĩa vụ chứng hôn.
Ghi chú:
Điều 102:
§1. Cư sở được thủ đắc do việc cư ngụ trong địa hạt của một giáo xứ hay ít ra của một Giáo Phận, với ý định sẽ ở đó vĩnh viễn, nếu không có gì thay đổi, hoặc việc cư ngụ đã được kéo dài năm năm trọn.
§2. Bán cư sở được thủ đắc do việc cư ngụ trong địa hạt của một giáo xứ hay ít ra của một Giáo Phận, với ý định sẽ ở đó ít là ba tháng nếu không có gì thay đổi, hoặc việc cư ngụ đã thực sự được kéo dài suốt ba tháng.
Ý định” cần được chứng minh bởi sự kiện, ví dụ như mới mua nhà, di cư từ xa đến ở…

III. Nhiệm vụ thiết lập hồ sơ, điều tra, rao báo

Điều 6
Cha sở nơi cử hành chứng hôn có nhiệm vụ thiết lập hồ sơ và điều tra hôn phối (x. GL 1113; 1070).
Trong trường hợp bất khả kháng, cha sở có thể nhờ một linh mục có khả năng thực hiện giúp, có thể là cha sở của bên nam hoặc bên nữ, hoặc nơi mà một trong đôi bạn đã cư ngụ được một tháng (x. GL 1070).
Ghi chú:
Nhiệm vụ nói trên được quy về cha sở nơi cử hành hôn phối, căn cứ theo Giáo luật, điều 1113, cha sở này “trước khi ban uỷ quyền riêng biệt, phải chu toàn tất cả những gì luật đã ấn định để chứng minh tình trạng thong dong của các bên” (GL 1113), và điều 1070:Nếu người thực hiện việc điều tra không phải là cha sở có thẩm quyền chứng hôn, thì người này phải thông báo sớm hết sức cho cha sở biết kết quả việc điều tra ấy bằng một văn thư chính thức”.

Điều 7
Khi cả đôi bạn đều có cư sở ở nước ngoài nhưng muốn kết hôn tại Việt Nam, cha sở tại Việt Nam có thể áp dụng như sau:
- Hoặc cha chấp nhận đảm nhận chứng hôn cho họ và chu toàn tất cả các quy định về thủ tục hôn phối (x. GL 1113).
- Hoặc cha yêu cầu họ xin một cha sở của một bên ở nước ngoài đảm nhận chu toàn các quy định về thủ tục hôn phối, và gửi lại cho cha giấy xác nhận là không có gì cản trở (nihil obstat) cho việc kết hôn thành sự và hợp luật (x. GL 1070; 1066).
Ghi chú:
Xem điều 1070:Nếu người thực hiện việc điều tra không phải là cha sở có thẩm quyền chứng hôn, thì người này phải thông báo sớm hết sức cho cha sở biết kết quả việc điều tra ấy bằng một văn thư chính thức”.

IV. Giới thiệu kết hôn

Điều 8
Khi tín hữu thuộc giáo xứ mình cử hành kết hôn ở một giáo xứ khác, cha sở có nghĩa vụ cấp giấy giới thiệu, trong đó chỉ ra những nơi mà người đó đã cư ngụ, và cấp chứng thư Rửa tội và Thêm sức.
Nếu không thể tìm thấy trong sổ hoặc có được chứng thư Rửa tội hay Thêm sức, cha sở có thể chứng nhận dựa theo lời tuyên bố của một nhân chứng đáng tin cậy hay lời thề của chính người đã được rửa tội, nếu họ đã lãnh nhận bí tích Rửa tội ở tuổi thành niên (x. GL 876).
Trong trường hợp cha sở không cấp giấy giới thiệu, cha sở nơi chứng hôn vẫn có quyền chứng hôn, miễn là chu toàn tất cả các quy định về thủ tục hôn phối.
Ghi chú:
Khi tín hữu không có chứng thư Rửa Tội, để tránh gây khó khăn cho họ, lời tuyên bố của một nhân chứng đáng tin cậy thì cũng đủ. Điều 876“Lời tuyên bố của một nhân chứng đáng tin cậy, hoặc lời thề của chính người đã được Rửa Tội nếu họ đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội ở tuổi thành niên, đủ để làm bằng chứng cho việc ban bí tích Rửa Tội, nếu điều đó không gây thiệt hại cho ai".

V. “Điều tra sơ khởi” đối với người ngoài Công giáo

Điều 9
Trước khi đảm nhận việc chứng hôn cho một trong đôi bạn là người ngoài Công giáo, cha sở nơi chứng hôn sẽ xin cha sở nơi người ấy thường trú giúp “điều tra sơ khởi” về tình trạng thong dong của người sắp kết hôn.
Nếu thấy đôi bạn có thể tiến tới kết hôn thành sự và hợp luật, cha sở nơi chứng hôn thiết lập hồ sơ và gởi giấy rao tới cha sở giáo xứ nơi người ngoài Công giáo đó thường trú.
Ghi chú:
Cha sở có thể nhờ ban chức việc tại địa phương người ngoài Công giáo thường trú để giúp điều tra.

Điều 10
Cha sở xin giúp điều tra cần phải gởi bản “đơn xin cử hành hôn nhân” của đôi bạn với các thông tin cần thiết cho cha sở nơi người ngoài Công giáo thường trú.
Nếu không biết người ngoài Công giáo đó thường trú thuộc giáo xứ nào, thì liên hệ với Tòa Giám mục của giáo phận đó.

VI. Trường hợp kết hôn với người ngoại quốc

Điều 11
Để chấp nhận chứng hôn có yếu tố người nước ngoài, ngoài các yêu cầu về giáo luật, hồ sơ cần có những giấy pháp lý như sau:
1° Giấy do cơ quan chính quyền cấp chưa quá sáu tháng, xác nhận tình trạng chưa có kết hôn, hoặc đã kết hôn nhưng người phối ngẫu đã qua đời.
2° Giấy đăng ký kết hôn nơi cơ quan chính quyền, hoặc của Việt Nam hoặc của nước ngoài.
3° Trong trường hợp có hoài nghi, cha sở nơi chứng hôn yêu cầu đôi bạn xin giấy chứng nhận của linh mục đang làm việc mục vụ tại nơi họ ở.
Ghi chú:
Yêu cầu của 1° có thể được thỏa mãn cách gián tiếp. Ví dụ trong hồ sơ đăng ký kết hôn đáng tin, có nơi nào đó có nói kết hôn lần đầu.

VII. Rao hôn phối

Điều 12
§1. Việc điều tra hôn phối thông thường được thực hiện bằng cách rao hôn phối tại nhà thờ vào ba thánh lễ Chúa nhật liên tiếp. Cha sở có quyền chuẩn rao một Chúa nhật, cha quản hạt có quyền chuẩn rao hai Chúa nhật, và Bản quyền địa phương có quyền chuẩn rao ba Chúa nhật.
§2. Đối với trường hợp thành sự hóa hay hợp thức hóa hôn phối cho những đôi bạn đã và đang muốn tiếp tục chung sống vợ chồng chung thủy, cha sở có thể tùy nghi cho miễn rao.
Ghi chú:
Đôi đã sống rối với nhau đã lâu, nếu không có gì hoài nghi, thì có thể miễn rao.

Điều 13
§1. Cha sở nào có nhiệm vụ hoặc đảm nhận việc thiết lập hồ sơ, phải lập tờ rao và gởi đi các nơi liên quan để nhờ rao, kể cả cha sở của nơi người ngoài Công giáo cư trú, hoặc nơi một bên đã cư ngụ trong một thời gian khá lâu (trên 1 năm).
Việc rao có thể thực hiện sớm, trước khi đôi bạn hội đủ những điều kiện khác, như học giáo lý, đăng ký kết hôn dân sự...
§2. Khi nhận tờ xin rao hôn phối, cha sở có bổn phận phải rao và báo kết quả rao sớm hết sức, mặc dù không có ai trong đôi bạn thuộc quyền mình.
Ghi chú:
Phải rao ở cả giáo xứ mà bên người lương hay Tin Lành thường trú. Ngoài ra, cũng cần phải gởi giấy rao đến nơi một bên đã cư ngụ trong một thời gian khá lâu hoặc thấy có sự hoài nghi nào đó, vì có thể có những trường hợp có con riêng nhưng giấu giếm hoặc còn vướng mắc do cuộc sống chung với người khác trước kết hôn.

Điều 14
Trong trường hợp không nhận được kết quả rao vì một lý do nào đó, cha sở nơi chứng hôn vẫn có quyền cho cử hành kết hôn, miễn là đã điều tra và thấy chắc chắn không có ngăn trở.
Ghi chú:
Cha sở nơi chứng hôn vẫn có quyền cho cử hành kết hôn, miễn là "Trước khi cử hành bí tích Hôn Nhân phải biết chắc không có gì cản trở việc cử hành bí tích thành sự và hợp luật". ( GL. 1066).

Điều 15
Trong trường hợp không thể chứng minh tình trạng thong dong của một người bằng những giấy tờ pháp lý, hoặc có giấy tờ pháp lý mà còn có hồ nghi, cha sở có thể khôn ngoan điều tra riêng, qua thân nhân của người sắp kết hôn, hoặc hai nhân chứng đáng tin.
Ghi chú:
Khi việc điều tra sơ khởi bên người ngoài Công giáo không thể thực hiện được, cha sở có thể khôn ngoan điều tra riêng, như gọi điện thoại hỏi han điều tra, đòi có giấy chứng nhận của cha mẹ, đính kèm bản sao căn cước công dân.

VIII. Giáo lý hôn nhân

Điều 16
§1. Trước khi kết hôn, đôi bạn buộc phải học giáo lý hôn nhân. Việc học giáo lý có thể thực hiện ở bất cứ giáo xứ nào, hoặc tại một cơ sở được Đấng Bản quyền chuẩn nhận.
§2. Chỉ có cha sở hoặc cơ sở được chuẩn nhận mới có quyền cấp chứng chỉ giáo lý hôn nhân.
§3. Các chứng chỉ giáo lý hôn nhân này được công nhận trong toàn Giáo Hội tại Việt Nam và có giá trị vô thời hạn.

Điều 17
Cha sở nơi dạy giáo lý hôn nhân hoặc giáo lý dự tòng, có thể đón nhận học viên, mặc dù không có giấy giới thiệu của cha sở nơi học viên có cư sở hoặc thường trú. Tuy nhiên, vì liên đới trách nhiệm, cha sở nơi dạy giáo lý nên yêu cầu học viên xin giấy giới thiệu của cha sở nơi người ấy thường trú.
Trong trường hợp bất khả kháng không thể xin giấy giới thiệu, cha sở nơi dạy giáo lý có bổn phận đón nhận học viên, sau đó gởi giấy cho cha sở riêng của đương sự để kính tường hoặc nhờ điều tra.

Điều 18
Thời gian khóa giáo lý hôn nhân kéo dài từ một đến ba tháng. Có thể rút ngắn nhưng vẫn bảo đảm những điều căn bản.

IX. Giáo lý dự tòng

Điều 19
Trong trường hợp học giáo lý dự tòng để kết hôn, thời gian dự tòng nên là sáu tháng, ít nhất là ba tháng.
Vì tôn trọng quyền tự do tôn giáo, chỉ nên khuyên chứ không được ép buộc người ngoài Công giáo theo đạo như là điều kiện để kết hôn. Nếu đương sự muốn, nên chấp nhận cho kết hôn với chuẩn khác đạo.

X. Thẩm quyền miễn chuẩn - cấm kết hôn

Điều 20
Đấng Bản quyền địa phương có quyền miễn chuẩn, bất kể hôn nhân được cử hành trong giáo phận mình hay giáo phận khác, cho những người thuộc quyền mình đang ở bất cứ nơi nào, và mọi người, Công giáo hay không Công giáo, đang cư ngụ trong địa hạt mình (x. GL 1078 §1).
Để thuận tiện, cha sở nơi cử hành hôn phối, khi thiết lập hồ sơ và điều tra, nên giúp đôi bạn xin Đấng Bản quyền của mình chuẩn các ngăn trở hôn phối mà Tông Toà không dành riêng cho mình (x. GL 1078 §2).
Nếu việc kết hôn được cử hành ở một giáo xứ thứ ba nhưng việc thiết lập hồ sơ và điều tra lại được thực hiện bởi cha sở của một trong đôi bạn, thì nên xin Đấng Bản quyền của một trong đôi bạn chuẩn ngăn trở hôn phối.
Ghi chú:
Trong hôn nhân khác đạo, cả hai người trong đôi bạn được hưởng miễn chuẩn để được kết hôn với nhau, không có nghĩa là chuẩn chỉ cho bên Công giáo hoặc chỉ cho bên người lương. Bản quyền của bên Công giáo hay của bên người lương cư ngụ được đều có quyền miễn chuẩn.

Điều 21
Cha sở không có quyền cấm kết hôn, cũng không được phép đặt thêm quy định có giá trị như những luật cấm hay hạn chế việc kết hôn (x. GL 1058; 1077§1).
Việc không chu toàn các nghĩa vụ trong giáo xứ không được coi như những lý do để từ chối việc ban các bí tích cho những người xin lãnh nhận cách thích đáng (x. GL 843§1).
Ghi chú:
Cần phân biệt giữa việc tín hữu đã chuẩn bị hay sẵn sàng đón nhận Bí tích và việc họ chu toàn nghĩa vụ đối với công ích trong giáo xứ. Nếu không chu toàn nghĩa vụ, họ có thể bị từ chối, không được hưởng quyền lợi nào đó thuộc công ích (Vd. chôn táng ở nghĩa trang, đội mai táng giúp đỡ...).

XI. Theo đạo Công giáo sau kết hôn

Điều 22
§1. Giáo Hội công nhận giá trị của hôn nhân đã được cử hành bởi một thể thức “công” theo luật hay tục lệ của người ngoài Công giáo, cũng quen gọi là hôn nhân tự nhiên, nghĩa là công nhận hôn nhân đó thành sự.
§2. Một khi hôn nhân đã thành sự, đã trở nên vợ chồng thì không được cử hành hôn nhân lần thứ hai trong đạo Công giáo. Vì vậy, khi một hoặc cả hai người trong đôi bạn, đã kết hôn thành sự theo thể thức ngoài Công giáo, nay xin được thâu nhận vào thông công đầy đủ với Giáo Hội Công giáo hoặc xin được rửa tội, thì không được cử hành kết hôn lại.
§3. Nếu chỉ một người trong đôi bạn người lương ấy theo đạo, họ không phải xin chuẩn hôn nhân khác đạo. Nếu cả hai người trong hôn nhân đó được rửa tội, hôn nhân của họ tự động được nâng lên phẩm giá bí tích.

XII. Ghi sổ - Sổ sách

Điều 23
§1. Cha sở nơi cử hành hôn phối buộc phải gửi giấy chứng nhận hôn phối cho các cha sở của nơi mà đôi bạn đã được rửa tội, để các ngài ghi chú vào sổ rửa tội, cho dù họ không còn có cư sở ở đó nữa (x. GL 535§2).
Cũng cần gởi cho cha sở nơi đôi bạn có cư sở những chứng thư hoặc chứng nhận cần thiết về bí tích, để ngài lập sổ Gia đình Công giáo.
§2. Các chứng nhận bí tích của Kitô hữu, cách riêng là bí tích Hôn phối, cho dù là sổ hay chứng nhận, luôn phải có chữ ký, ngày tháng và nơi lãnh nhận bí tích Rửa tội (x. GL 849).

Điều 24
Việc cấp sổ Gia đình Công giáo thuộc nhiệm vụ và thẩm quyền của cha sở; không tùy thuộc vào việc đã nhập xứ hay đang tạm trú, hoặc có hay không đóng góp cho giáo xứ.

Điều 25
§1. Các hồ sơ hôn nhân: chứng thư, giấy giới thiệu, giấy rao, kết quả rao,... được phép gởi qua các phương tiện kỹ thuật số với các bản scan màu hoặc bản chụp ảnh, miễn là được làm một cách đúng đắn, rõ ràng.
§2. Phải được gửi trực tiếp từ văn phòng giáo xứ/giáo phận này đến văn phòng giáo xứ/giáo phận kia.
§3. Khi có hồ nghi về sự giả dối, liên lạc với những người có thẩm quyền của đương sự.

Trung tâm Mục vụ Giáo phận Vĩnh Long, ngày 17 tháng 04 năm 2024
(đã ký)
+ Đaminh Nguyễn Văn Mạnh
Giám mục Giáo phận Đà Lạt
Chủ tịch Uỷ ban Mục vụ Gia đình
(đã ấn ký)
+ Giuse Nguyễn Năng
Tổng Giám mục TGP Sài Gòn – Tp HCM
Chủ tịch HĐGM Việt Nam
================================================================
Xin đọc thêm bản "NHỮNG NGUYÊN TẮC HƯỠNG DẪN...", cách đầy đủ hơn,  tại https://giaoluatconggiao.com/bi-tich-hon-phoi/nhung-nguyen-tac-huong-dan-giao-luat-hon-phoi-293.html.

Tác giả: JB Dũng Lm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

  • Vũ Minh Hào
    Con kính chào cha! Trong tài liệu này có điều 13 liên quan tới việc thiết lập hồ sơ rao sớm cho đôi bạn. Ngoài những hoàn cảnh như việc học giáo lý hay đăng ký thủ tục kết nhân dẫn hôn dân sự thì không biết việc vắng mặt một người (không thể hiện diện vì hoàn cảnh ) có thể áp dụng để cho phép lập hồ sơ rao sớm không ạ? Nhờ cha giúp đỡ, con xin chân thành cảm ơn cha.
      Vũ Minh Hào   28/11/2024 20:39
GIAOLUATCONGGIAO.COM

GIỚI THIỆU TRANG GIÁO LUẬT CÔNG GIÁO

Con xin giới thiệu trang Web ;http://giaoluatconggiao.com được thành lập với sự khuyến khích của Đức cha Toma Nguyễn Văn Trâm, Gp. Bà Rịa phụ trách Giáo Luật trong HĐGMVN, Đức cha Giuse Võ Đức Minh Gp Nha Trang. Trang Web được phát kiến và hình thành với các lý do sau: - Trong khóa Bổ Túc...

THỐNG KÊ
  • Đang truy cập30
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm29
  • Hôm nay993
  • Tháng hiện tại35,635
  • Tổng lượt truy cập11,236,007
Liên kết web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi