9. THÀNH SỰ HÓA HÔN NHÂN
“Thành sự hóa” (convalidation) hôn nhân vẫn thường được gọi là “hợp thức hóa” hôn nhân. Thành sự hóa hôn nhân, nghĩa là làm cho một hôn nhân bất thành hay vô hiệu trở nên thành sự hay hữu hiệu. Trong khi đó, cách nói “hợp thức hóa” chỉ mang ý nghĩa là làm cho trở thành hợp luật hay hợp pháp.[1]
Các đôi đang sống trong hôn nhân không thành sự, cũng thường được gọi là đang sống "rối hôn phối" (irregular mariage) và các mục tử lo liệu để họ được hợp thức hóa hay thành sự hóa.
Để giúp họ hợp thức hóa, Giáo luật dự trù hai giải pháp: thành sự hóa “đơn thuần" (đ.1156-1160) và thành sự hóa bằng "điều trị tại căn" (đ.1161-1165).
Sự khác biệt căn bản giữa hai cách thành sự hóa, đó là có hay không cử hành lại nghi thức ưng thuận kết hôn theo Giáo luật (forma canonica). Trong thành sự hóa đơn thuần cần phải cử hành lại thể thức kết hôn Công giáo; điều trị tại căn lại không cần cử hành lại thể thức kết hôn Công giáo.
Điều căn bản làm nên kết ước hôn nhân là sự ưng thuận được cử hành theo nghi thức luật. Điều trị tại căn, vì vậy, có ý nghĩa là sửa chửa lại sự vô hiệu của việc cử hành nghi thức ưng thuận ban đầu, mà không cần lập lại việc cử hành nghi thức đó.
Thành sự hóa đơn thuần là giải pháp mà lâu nay các cha sở vẫn thường áp dụng mỗi khi hợp thức hóa một hôn nhân bất thành. Những hôn nhân này vô hiệu vì có ngăn trở tiêu hôn hoặc vì chưa có làm phép hôn phối, nghĩa là chưa có cử hành thể thức kết hôn theo Giáo luật.
Ví dụ, hợp thức hóa cho đôi kết hôn khác đạo: đôi bạn chỉ kết hôn dân sự rồi sống như vợ chồng với nhau.
Điều 1156
§1. Để thành sự hóa một hôn nhân bất thành do một ngăn trở tiêu hôn thì buộc ngăn trở chấm dứt hoặc được miễn chuẩn, và ít là bên biết có ngăn trở phải lập lại sự ưng thuận.
§2. Luật Giáo hội buộc phải lập lại sự ưng thuận ấy để việc thành sự hóa có hiệu lực, mặc dù cả hai bên đã biểu lộ sự ưng thuận và sau đó không rút lại sự ưng thuận.
Thành sự hóa đơn thuần phải bao gồm hai điều: 1- ngăn trở tiêu hôn đã chấm dứt hay được miễn chuẩn; 2- lập lại sự ưng thuận.
Ví dụ 1
Một hôn nhân khác đạo chỉ có kết hôn theo nghi thức dân sự. Kết hôn theo nghi thức dân sự này đối với Giáo luật là vô hiệu. Để thành sự hóa hôn nhân, sau khi đã xin Đấng Bản quyền ban miễn chuẩn ngăn trở khác đạo, cha sở cử hành thể thức kết hôn, để họ lập lại sự ưng thuận,.
Ví dụ 2
Một người đang mắc ngăn trở lời khấn dòng, nhưng vì không biết nên cứ kết hôn theo luật đạo. Hôn nhân này vô hiệu do có ngăn trở tiêu hôn. Để thành sự hóa hôn nhân, sau khi đã xin được miễn chuẩn ngăn trở khấn dòng, cha sở cử hành thể thức kết hôn, để họ lập lại sự ưng thuận.
Lập lại sự ưng thuận phải là một hành vi mới của ý muốn kết hôn mà bên lập lại sự ưng thuận ấy biết hay quan niệm rằng hôn nhân đã không thành ngay từ đầu (đ. 1157).
Sự ưng thuận, một hành vi diễn ra trong tâm trí lại phải được diễn tả qua một nghi thức hay nghi lễ kết hôn ra bên ngoài.
Ví dụ:
- Trong nghi thức kết hôn Công giáo, đôi bạn kết hôn biểu lộ sự ưng thuận làm vợ làm chồng: "Tôi… nhận em … làm vợ và hứa sẽ…"; "Tôi…. nhận anh … làm chồng và hứa sẽ…"
- Trong nghi thức dân sự hay tôn giáo khác…, trong đó bao giờ cũng phải có lời nói hay cử chỉ diễn tả sự nhận nhau làm vợ làm chồng (trao nhẫn, vái lạy nhau, vái lạy tổ tiên, ký giấy tờ kết hôn…).
“Lập lại” có ý nói là đã thực hiện một lần rồi, bây giờ làm lại. Nếu chưa thực hiện thì không nói là lập lại. Phải lập lại ưng thuận vì lần trước có việc cử hành ưng thuận nhưng bị vô hiệu. Sự vô hiệu này hoặc do có ngăn trở tiêu hôn hoặc do thiếu thể thức. Nay muốn thành sự hóa thì phải là cử hành sự ưng thuận theo thể thức Giáo luật, tức là cử hành kết hôn theo luật đạo.
Luật quy định hai cách thức lập lại sự ưng thuận:
- Cử hành theo thể thức Giáo luật (forma canonica), tức là cử hành chứng hôn theo nghi thức kết hôn Công giáo thông thường: Vị chứng hôn cho đôi bạn, với hai người làm chứng (đ.1108§1).
Theo luật định, phải biểu lộ sự ưng thuận kết hôn theo thể thức Giáo luật, nếu ngăn trở tiêu hôn là "công" dựa trên quy định:
Nếu ngăn trở là công, cả hai bên đều phải lặp lại sự ưng thuận theo thể thức Giáo luật, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 1127§2 (đ.1158§1).
Trong thực tế, hầu hết các trường hợp xin được hợp thức hóa đều mắc ngăn trở "công", vì ngăn trở đều có thể chứng minh được. Vì vậy, các cha sở thường cử hành sự "ưng thuận" kết hôn theo "thể thức Giáo luật" khi thành sự hóa một hôn nhân.
Điều 1158§1 lại có quy định một luật trừ, là "giữ nguyên những quy định của điều 1127§2". Điều 1127§2 này có quy định về việc được miễn chuẩn nghi thức Giáo luật đối với hôn nhân hỗn hợp hay dị giáo. Do đó, trong trường hợp được miễn chuẩn thể thức Giáo luật theo điều 1127§2 thì không cần lập lại sự ưng thuận theo thể thức Giáo luật nữa.
- Cử hành "tư" việc lập lại sự ưng thuận
Cử hành việc lập lại sự ưng thuận theo một hình thức riêng tư (private) và kín đáo thì cũng đủ, nếu ngăn trở không thể chứng minh:
Nếu ngăn trở không thể chứng minh, thì chỉ cần bên ý thức có ngăn trở lặp lại sự ưng thuận cách riêng tư và kín đáo, miễn là bên kia vẫn duy trì sự ưng thuận đã được biểu lộ; hoặc cả hai bên phải lặp lại sự ưng thuận, nếu cả hai bên đều biết có ngăn trở (đ.1158§2).
Đây là xét về thành sự hóa một hôn nhân có ngăn trở không thể chứng minh được hoặc không thể được loan truyền.[2]
Ví dụ người chồng biết mình có họ máu với người vợ, nhưng những người thân đã mất tích không thể chứng minh được.
Trong trường hợp trên, chỉ cần người chồng lập lại sự ưng thuận cách riêng tư kín đáo, miễn là bên kia vẫn duy trì sự ưng thuận đã được biểu lộ trước kia.
Khi cả hai người đều ý thức có ngăn trở, thì cả hai phải lập lại sự ưng thuận.
Thể thức được cử hành một cách riêng tư, không cần theo một quy định chính thức nào.[3] Ví dụ, không cần có hai người chứng trong nghi thức.
Để thành sự hóa một hôn nhân bất thành do thiếu thể thức, phải được kết ước lại theo thể thức Giáo luật, miễn là giữ nguyên những quy định của điều 1127§2 (đ. 1160).
“Thiếu thể thức”, có thể là hoàn toàn thiếu vắng thể thức Giáo luật, ví dụ như chỉ có kết hôn theo thể thức dân sự hay tôn giáo khác mà không có cử hành thể thức kết hôn theo nghi thức Công giáo. Tuy nhiên, thiếu thể thức cũng có thể là đã cử hành thể thức Giáo luật nhưng thể thức bị hà tỳ hay khiếm khuyết đến mức vô hiệu, như trong trường hợp cử hành nghi thức kết hôn mà vị chứng hôn lại không có năng quyền chứng hôn, hoặc thiếu một hay hai người làm chứng.
Ví dụ 1
Hai người Công giáo chỉ kết hôn dân sự với nhau do chồng bị có ngăn trở dây hôn phối. Nay người chồng hết ngăn trở vì vợ trước của ông chết. Để được thành sự hóa, họ phải kết hôn theo thể thức Giáo luật, vì thể thức cho kết hôn này chưa hề được cử hành.
Ví dụ 2
Đôi bạn gồm Công giáo và người lương, vì trước đây không được miễn chuẩn ngăn trở khác đạo, họ chỉ có kết hôn dân sự và sống rối hôn phối với nhau. Đôi này trước đây đã biểu lộ sự ưng thuận theo luật dân sự; nhưng đã hoàn toàn thiếu vắng thể thức Giáo luật.
Nay, nếu họ muốn được thành sự hóa đơn thuần thì họ cần được Đấng Bản quyền miễn chuẩn ngăn trở khác đạo và cử hành sự ưng thuận kết hôn theo thể thức Giáo luật.
Ví dụ 3
Một hôn nhân được cử hành do một linh mục không có năng quyền chứng hôn, hoặc do linh mục có năng quyền nhưng trong cử hành lại không có nhân chứng. Hôn nhân vô hiệu do thể thức Giáo luật bị khiếm khuyết đến mức vô hiệu. Để được thành sự hóa, đôi bạn phải được kết hôn lại theo thể thức Giáo luật.
Trong trường hợp được miễn chuẩn thể thức Giáo luật, theo điều 1127§2 đối với hôn nhân hỗn hợp hay khác đạo thì không cần lập lại sự ưng thuận theo thể thức Giáo luật nữa.
Vấn đề: Thành sự hóa hôn nhân có cần được học giáo lý hay rao báo không?
Có sự khác nhau giữa một đôi bạn mà nay họ bắt đầu kết hôn và một đôi vợ chồng đang sống một hôn nhân bất thành và bất hợp pháp do chỉ có kết hôn dân sự.
Thành sự hóa, bao hàm ý nghĩa là hôn nhân đã hiện hữu một cách nào đó, do một kết ước dân sự hoặc tôn giáo,[4] nhưng vô hiệu chiếu theo quy định của Giáo luật, như trường hợp thứ hai nói trên.
Vì đã họ đã sống chung và trung tín với nhau một thời gian lâu dài. Nếu những ngăn trở tiêu hôn hay bất hợp luật đã được thấy rõ, thì các việc chuẩn bị trước hôn nhân như rao báo, học giáo lý hôn nhân... được phép bỏ qua hay giảm bớt.
Trong trường hợp có hồ nghi có một ngăn trở nào khác thì cha sở cần điều tra, rao báo.
Trong thực tế, thành sự hóa một hôn nhân bị vô hiệu bằng phương pháp điều trị tại căn, một giải pháp không cần cử hành nghi thức hôn nhân Công giáo, thì quả là một điều quá mới mẻ đối với Giáo hội Việt Nam.
Các mục tử cần phải tìm hiểu và áp dụng việc điều trị tại căn, vì sẽ giúp rất nhiều vào việc thành sự hóa cho những đôi hôn nhân.
Thiết thực nhất là cho trường hợp đôi vợ chồng chỉ có kết hôn dân sự; người chồng là người lương không chịu đến nhà thờ hay gặp cha sở. Trong khi đó, người vợ Công giáo lại muốn được hợp thức hóa hôn nhân để sống đạo, có thể được nhận lãnh các bí tích.
Viện điều trị tại căn một hôn nhân bất thành có điểm mấu chốt đặc biệt là được miễn đi việc cử hành hôn nhân theo thể thức Giáo luật, nghĩa là, không cử hành nghi thức kết hôn, cũng có nghĩa là không lập lại sự ưng thuận theo thể thức.
Để dễ hiểu hơn giải pháp này, chúng ta hãy tưởng tượng đến một kết hôn đã cử hành theo thể thức Giáo luật, nhưng sau đó cha sở phát hiện là cha chưa xin miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn hoặc cha đã nhầm lẫn trong thể thức cử hành "khiến hôn nhân vô hiệu". Vậy thì, sẽ phải giải quyết làm sao đối với những hôn nhân đó? Cha sở kêu gọi đôi bạn đến nhà thờ để cử hành lại lễ cưới hay cử hành lại nghi thức kết hôn hay sao?
Điều trị tại căn sẽ giúp giải quyết những bối rối đó, qua việc thành sự hóa những hôn phối mà không cần phải làm lại lễ cưới hay cử hành lại nghi thức kết hôn.
Điểm khác biệt căn bản giữa điều trị tại căn và thành sự hóa đơn thuần là điều trị mà không đòi phải lập lại sự ưng thuận, nghĩa là, không cử hành lại nghi thức biểu tỏ sự ưng thuận kết hôn nữa, cho dù nghi thức kết hôn trước bị vô hiệu.
Điều 1161§1 cho thấy ý nghĩa của điều trị tại căn:
Điều trị tại căn một hôn nhân bất thành là việc thành sự hóa hôn nhân ấy mà không buộc lập lại sự ưng thuận, do nhà chức trách có thẩm quyền ban, bao hàm việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có, và thể thức Giáo luật, nếu đã không được tuân giữ, cũng như sự hồi tố của những hiệu quả Giáo luật (đ.1161§1).
Nói cách rõ ràng hơn theo quy định Giáo luật, điều trị tại căn khác với thành sự hóa đơn thuần ở những điểm:
- Không đòi phải lập lại sự ưng thuận, miễn là họ đã có sự ưng thuận và vẫn duy trì sự ưng thuận đó (đ.1162);
- Bao hàm (entail, comporta) việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có; và thể thức Giáo luật, nếu bị khiếm khuyết;
- Hồi tố giá trị hôn nhân;
- Được ban cho bởi nhà chức trách có thẩm quyền: Đức Giám mục Giáo phận hay Tông Tòa.
Ví dụ: Hai người Công giáo sau kết hôn phát hiện ra họ là anh em chú bác, có liên hệ huyết tộc 4 bậc hàng ngang. Họ đã có ngăn trở huyết tộc vì vậy hôn nhân bất thành. Nay cần thành sự hóa. Một trong hai cách sau đều được:
- Thành sự hóa đơn thuần (được nói ở phần trên), bằng cách xin Đấng Bản quyền địa phương chuẩn ngăn trở huyết tộc và cử hành lại nghi thức ưng thuận kết hôn theo Giáo luật.
- Điều trị tại căn, bằng cách làm đơn xin Giám mục ban ơn, trong đó bao hàm việc chuẩn ngăn trở huyết tộc, không cử hành lại sự ưng thuận, nghĩa là không cử hành lại nghi thức kết hôn theo Giáo luật. Khi Giám mục Giáo phận ký chấp thuận ban ơn điều trị tại căn thì hôn nhân được thành sự và có giá trị hồi tố.
1) Sự ưng thuận đã được biểu lộ theo thể thức công
Luật quy định: không thể điều trị tại căn nếu ngay từ đầu, thiếu sự ưng thuận của một trong hai bên hay cả hai bên (đ. 1162).
Sự "ưng thuận" kết hôn chính là điểm cốt yếu nhất của một kết ước hôn nhân và nó phải được biểu lộ theo thể thức công (public), tức là phải được biểu lộ theo những nghi thức theo luật hay lệ quy định. Một sự ưng thuận nếu chỉ được diễn tả theo một thể thức tư (private) thì kể như là không có về mặt pháp lý. Một thể thức là tư khi nó được làm tự phát mà không theo một quy định của luật hay lệ gì cả.
Ví dụ, hai người nam nữ kết ước hôn nhân trước tượng Đức Mẹ hay tượng Phật một cách tự phát, hoặc chỉ giao ước riêng để sống chung với nhau, thì những kết ước này là tư. Nếu họ chỉ đã kết ước hay thỏa thuận với nhau theo một cách thức tư như vậy thì coi như họ chưa có sự ưng thuận theo pháp lý, nghĩa là chưa có sự kết ước vợ chồng được công nhận.
Khi chưa có sự ưng thuận được công nhận, họ không được điều trị tại căn. Nếu muốn hợp thức hóa hôn nhân, họ phải được thành sự hóa cách đơn thuần, nghĩa là phải cử hành nghi thức kết hôn, tức là, nghi thức diễn tả sự ưng thuận kết hôn theo Giáo luật.
Luật điều trị tại căn quy định: …"bao hàm việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có, và thể thức Giáo luật, nếu đã không được tuân giữ…," (đ. 1161§1).
Ơn ban điều trị tại căn bao hàm việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có, và thể thức Giáo luật.
“Bao hàm” không có nghĩa là bao gồm. Vì vậy, không phải xin miễn chuẩn cho từng ngăn trở hoặc thể thức Giáo luật nữa. Không cần phải làm các đơn xin miễn chuẩn khác nhau: đơn xin miễn chuẩn khác đạo, đơn xin miễn chuẩn thể thức và đơn xin điều trị tại căn... Chỉ cần làm một đơn xin điều trị tại căn là đủ, trong đó có nêu ra những ngăn trở hay thiếu thể thức Giáo luật và những lý do để xin điều trị tại căn một hôn nhân, mà đã bị vô hiệu đó.
Hồi tố những hiệu quả có nghĩa là công nhận lại những hiệu quả đã có từ trước. Những giá trị, những quyền lợi và bổn phận của một hôn nhân (bất thành) mà trước đây đã không được Giáo hội công nhận nay lại được công nhận khi ơn điều trị tại căn được ban; không kể từ lúc điều trị tại căn nhưng kể từ khi kết hôn trước kia. Nói cách khác, hôn nhân được coi là hữu hiệu kể từ khi cử hành ưng thuận trước, hoặc kể từ một kết hôn bất thành được cử hành, không kể từ ngày được điều trị tại căn.
Trong lịch sử Giáo hội, điều trị tại căn có ý để hồi phục quyền lợi cho những đứa con sinh ra trong cuộc hôn nhân bất thành đó, đặc biệt là cho những đứa con trong hàng vua quan quý tộc.
Điều trị tại căn còn giúp tránh sự đối chọi với luật dân sự về việc nhìn nhận giá trị của hôn nhân, liên quan đến những quyền lợi và bổn phận, nhất là trong một quốc gia, luật kết hôn dân sự và tôn giáo có những liên kết với nhau. Ví dụ như trong một quốc gia, luật dân sự công nhận kết hôn Công giáo. Sau một thời gian kết hôn, ví dụ 5 năm, thì mới khám phá ra hôn nhân bị vô hiệu. Những bổn phận và quyền lợi của đôi hôn nhân này, cũng như con cái, thực hiện trong 5 năm qua đối với xã hội dân sự thì được công nhận, nhưng đối với Giáo hội thì không. Điều trị tại căn hôn nhân đó giúp hồi tố lại giá trị hôn nhân kể từ 5 năm trước.
Cũng vì lợi ích trên, điều trị tại căn đã được sử dụng từ lâu trong Giáo hội, nơi các quốc gia Công giáo.
Việc điều trị tại căn bao hàm việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có, và thể thức Giáo luật, nếu đã không được tuân giữ (đ.1161§1).
Việc điều trị tại căn bao hàm chuẩn các ngăn trở nếu có. Tuy nhiên, không phải hôn nhân vô hiệu do bất cứ ngăn trở nào cũng được điều trị tại căn.
Nếu là ngăn trở theo luật tự nhiên hay thiết định của Thiên Chúa, thì không được điều trị tại căn (Vd. bất lực giao hợp, dây hôn phối, anh em ruột …) trừ khi các ngăn trở chấm dứt (đ. 1163§2), ví dụ như người phối ngẫu của hôn nhân trước qua đời.
Cũng tùy theo loại ngăn trở mà thẩm quyền điều trị tại căn có khác nhau, là Giám mục Giáo phận hay Tòa Thánh.
Trong điều tại căn có bao hàm việc miễn chuẩn "thể thức Giáo luật nếu đã không được tuân giữ" (đ. 1161§1). Thể thức Giáo luật “đã không được tuân giữ” có nghĩa là đã không có cử hành thể thức hoặc đã có cử hành nhưng bị khiếm khuyết đến mức vô hiệu.
- Thể thức Giáo luật bị khiếm khuyết hay hà tỳ (defected):
Thể thức Giáo luật bị khiếm khuyết có thể do cha chứng hôn không có năng quyền chứng hôn; Vd. thiếu người làm chứng khi cử hành chứng hôn.
Trong những trường hợp trên, phần lỗi lầm không thuộc về phía giáo dân nhưng về phía cha sở. Việc điều trị tại căn quả là hữu ích, có thể được làm một cách âm thầm, không cho đôi bạn được biết (đ. 1164) khi có lý do nghiêm trọng. Đây quả là một giải pháp thuận lợi tránh được sự bối rối cho tín hữu.
- Thể thức Giáo luật đã không được cử hành:
Đối với trường hợp kết hôn của hai người Công giáo, nếu chưa có cử hành thể thức ưng thuận thì hôn nhân chưa được cử hành, nghĩa là, chưa có sự biểu lộ ưng thuận hợp luật (đ. 1057), thì không được điều trị tại căn.
Đối với trường hợp kết hôn mà chỉ có một bên là người Công giáo (hổn hợp, khác đạo) mà không có cử hành theo thể thức Giáo luật, và chỉ có cử hành theo luật dân sự hay tôn giáo khác thì có thể được điều trị tại căn.
Điều trên được xác định nhờ qua sự miễn chuẩn thể thức Giáo luật, theo quy định ở điều 1127§2. Đấng Bản quyền địa phương có thể miễn chuẩn thể thức Giáo luật cho hôn nhân hỗn hợp hay khác đạo nếu có khó khăn nghiêm trọng ngăn cản việc tuân giữ nó. Trong miễn chuẩn này, Giáo luật đòi hỏi một điều thiết yếu để thành sự: đó là phải có cử hành một thể thức kết hôn công (public) nào đó để diễn tả sự ưng thuận.
Như vậy đối với trường hợp hôn nhân giữa một người Công giáo và một người lương mà chỉ có cử hành theo thể thức dân sự, có thể được điều trị tại căn, bao hàm việc miễn chuẩn ngăn trở khác đạo và miễn chuẩn thể thức, dựa theo quy định của điều 1127§2. Cũng vậy hôn nhân hỗn hợp giữa người Công giáo và Tin lành… có thể được điều trị tại căn, dựa theo quy định của điều 1127§2.
Điều kiện để miễn chuẩn thể thức đối với hôn nhân hỗn hợp hay khác đạo, theo điều 1127§2, là họ đã phải có cử hành một thể thức kết hôn công (public) nào đó đòi hỏi. Điều kiện này được coi là thỏa mãn, nếu trước đây, họ đã có cử hành một kết hôn dân sự hay tôn giáo, như đã đăng ký và được chứng nhận kết hôn bởi chính quyền, hoặc đã có đám cưới theo tục lệ địa phương, hoặc đã kết hôn trong giáo hội Tin lành…
Ngược lại, nếu đôi bạn, chỉ có sống chung, chỉ có kết ước riêng tư thì không thể được điều trị tại căn, vì họ chưa có cử hành sự ưng thuận theo một thể thức công nào đó. Trong trường hợp này, để giúp họ, phải dùng giải pháp thành sự hóa đơn thuần, nghĩa là, phải cử hành thể thức kết hôn theo Giáo luật,
Có thể kể một ví dụ cụ thể về điều trị tại căn:
Một bà Công giáo đã kết hôn dân sự với một người lương đã lâu. Nay bà xin giúp bà hợp thức hóa hôn nhân để an tâm giữ đạo. Người chồng lương, tuy vẫn muốn duy trì đời sống vợ chồng, nhưng lại không chấp nhận gặp cha sở hay cử hành nghi thức hôn nhân đạo, dù ở nhà thờ hay tại tư gia. [5]
Trong trường hợp này cha sở xin Đức Giám mục Giáo phận ban ơn điều trị tại căn, bao hàm việc miễn chuẩn ngăn trở khác đạo và miễn chuẩn thể thức Giáo luật. Tuy nhiên bà ấy phải tuyên bố tránh xa nguy hiểm đức tin... theo quy định của điều 1125.
Về việc tuyên bố này, trong trường hợp có lý do nghiêm trọng, ví dụ như người chồng bách hại việc giữ đạo, thì không cần tuân giữ, nghĩa là không cần cho ông ấy biết là có sự điều trị tại căn (đ.1164) và những cam kết của bên Công giáo theo đòi hỏi của điều 1125.
Để điều trị tại căn một hôn nhân, luật đòi hỏi phải biết chắc chắn là đôi bên muốn duy trì đời sống vợ chồng (đ. 1161§3).
Nếu họ chưa dứt khoát duy trì đời sống vợ chồng thì cứ để tình trạng rối hôn phối tiếp diễn, không được thành sự hóa hôn nhân, cho dù bằng cách thành sự hóa đơn thuần hay bằng điều trị tại căn.
Nếu họ muốn chia tay, thì Giáo hội có thể tuyên bố hôn nhân của họ bất thành và cho chia tay, không tiến hành điều trị tại căn.
Điều 1164 quy định: “Điều trị tại căn có thể được ban thành sự, ngay cả khi hai bên hoặc một bên không biết, nhưng chỉ được ban vì một lý do nghiêm trọng”.
Khi điều trị tại căn, có thể không cho cả hai bên biết để tránh bất ổn. Ví dụ trường hợp, do lỗi của cha chứng hôn, việc cử hành thể thức bị khiếm khuyết hoặc cha thiếu năng quyền khiến việc chứng hôn bị vô hiệu.
Khi điều trị tại căn, có thể không cho một bên biết. Ví dụ trường hợp, trong hôn nhân khác đạo, bên người lương chống đối hoặc bách hại việc giữ đạo của bên Công giáo, việc điều trị tại căn nên làm âm thầm không cho bên người lương biết.
Dành cho Tông Tòa ban ơn điều trị tại căn:
- Hôn nhân có những ngăn trở dành riêng cho Tông Tòa (Vd. tội ác, chức thánh) hoặc khi đã chấm dứt ngăn trở thuộc luật tự nhiên hoặc thuộc luật thiết định của Thiên Chúa (đ. 1165§2).
Ví dụ, một hôn nhân bất thành do có ngăn trở dây hôn phối (thuộc luật thiết định của Thiên Chúa) nay chấm dứt do người phối ngẫu bị chết, việc điều trị tại căn dành cho Tông Tòa.
- Ban cho nhiều trường hợp một lần (đ. 1165§2). Ví dụ như ban một lần cho nhiều cặp đã kết hôn, vì họ kết hôn vô hiệu do một linh mục không có năng quyền (Vd. cha sở đã chịu chức bất thành hoặc ngài chưa được Rửa tội!).
Trong những trường hợp điều trị tại căn được dành riêng cho Tông Tòa, để tránh bất tiện, cha sở nên giúp thành sự hóa hôn nhân bằng con đường thành sự hóa đơn thuần.[6]
Giám mục Giáo phận có quyền ban điều trị tại căn khi (đ. 1165§2):
- Hôn nhân có những ngăn trở mà không dành riêng cho Tông Tòa;
- Ban cho từng trường hợp, ngay cả khi có nhiều lý do bất thành cho từng trường hợp.
Đối với kết hôn hỗn hợp hay dị giáo, thì cần hội đủ điều kiện ở điều 1125 (điều kiện bên Công giáo phải cam kết tránh nguy hiểm mất đức tin, giáo dục con cái …).
Đôi khi cha chứng hôn bị sai lầm khi chứng hôn khiến việc kết hôn vô hiệu. Quả là bất tiện hoặc rắc rối nếu cha gọi đôi hôn nhân đến nhà thờ để cử hành hôn phối lại một lẫn nữa! Bằng giải pháp điều trị tại căn, vì không đòi phải cử hành lại việc kết hôn, tránh được sự gây bối rối cho đôi bạn kết hôn, và tránh được thắc mắc và phê bình của tín hữu đối với cha chứng hôn.
Ví dụ 1
Sau khi cử hành cho hôn phối khác đạo, cha sở nhận ra rằng mình đã quên xin miễn chuẩn ngăn trở khác đạo. Hôn nhân vô hiệu cho dù cha vô tình quên sót. Cha sở nên xin Giám mục Giáo phận điều trị tại căn bằng một đơn xin, không cần phải cử hành lại thể thức kết hôn.
Ví dụ 2
Sau khi cử hành hôn phối được nhiều năm, cha sở được phát hiện là cha chưa được Rửa tội. Do đó, cha đã chịu chức không thành sự và những đôi cha đã chứng hôn đều vô hiệu. Nhiều đôi hôn phối có thể được điều trị tại căn một lúc bởi Tòa Thánh. Đơn xin được làm bởi Đấng Bản quyền, không cần phải bởi những đôi hôn phối.
Một trường hợp khác có thể xảy ra: ngăn trở tiêu hôn (Vd. ngăn trở huyết tộc) được khám phá sau khi hai vợ chồng đang sống hạnh phúc với những đứa con đã lớn. Việc lập lại nghi thức kết hôn quả là gây ra sự bất bình an, thắc mắc và phê bình. Điều trị tại căn sẽ giúp tránh những sự bất ổn này.
Ví dụ 3
Một tu sĩ đã khấn khiết tịnh vĩnh viễn được phép xuất ra ngoài dòng sống nhưng chưa được giải lời khấn. Sau một thời gian, người này tiến tới kết hôn, hoặc tưởng rằng mình đã được miễn chuẩn lời khấn hoặc cố tình giấu giếm. Người này xin và đã được cha sở cho cử hành hôn nhân. Sau đó, hôn nhân được khám phá ra là bất thành do có ngăn trở lời khấn dòng. Khi ngăn trở khấn dòng đã được giáo quyền miễn chuẩn, đôi này có thể được hợp thức hóa bằng việc điều trị tại căn, không phải cử hành lại việc kết hôn.
Ở Việt Nam hiện nay có nhiều trường hợp hôn nhân khác đạo mà trước đó chỉ có cử hành theo luật dân sự, do bên người lương không chịu đến nhà thờ hoặc gặp linh mục để tiến hành nghi thức kết hôn. Điều trị tại căn giúp hợp thức hóa hôn nhân cho họ.
Trường hợp, ví dụ, một bà Công giáo kết hôn với người lương mà người lương này lại không chịu đến nhà thờ hoặc không chịu đến gặp linh mục, là một trường hợp điển hình, đang có rất nhiều ở Việt Nam. Việc điều trị tại căn là một giải pháp thực hiện được, giúp hợp thức hóa để cho người Công giáo yên tâm sống đạo.
Quy định của điều 1125 đòi buộc người Công giáo phải hứa xa tránh nguy hiểm mất đức tin …và phải thông báo cho bên kia biết. Trong trường hợp thấy bất lợi cho người Công giáo hay có khó khăn thì có thể miễn thông báo cho bên không Công giáo biết. Vì theo nguyên tắc, điều trị tại căn có thể tiến hành mà không cần cho các bên biết.
Ở phần phụ lục, có hai mẫu đơn được phác thảo, một dành cho trường hợp hôn nhân bị vô hiệu đơn thuần do có ngăn trở tiêu hôn, một dành cho trường hợp hôn nhân khác đạo đang rối mà bên lương không chịu cử hành nghi thức Công giáo.
Việc đứng đơn xin thì tùy nghi, hoặc cha sở hoặc một hay hai bên đứng đơn.
Hai mẫu đề nghị này đều để đôi bạn đứng đơn xin và cha sở nêu ý kiến bên dưới đơn. Trong trường hợp, có lý do nghiêm trọng, không muốn cho đôi bạn biết việc điều trị tại căn, thì cha sở đứng tên xin, với nội dung đơn xin tương tự.
Đơn được gởi lên Giám mục Giáo phận, không gởi đến các Đấng Bản quyền khác (Tổng Đại diện, Đại diện Giám mục) như trong các trường hợp xin miễn chuẩn thông thường.
[1] Kiểu nói “hợp thức hóa” tuy phổ thông nhưng không diễn tả chính xác được sự hữu hiệu hóa một hôn nhân, vì có những trường hợp hôn nhân bất hợp luật nhưng vẫn hữu hiệu. Ví dụ, nữ kết hôn 17 tuổi mà không xin chuẩn tuổi là bất hợp luật nhưng hôn nhân vẫn hữu hiệu.
[2] x. L. SABBARESE, Il matrimonio canonico… 394.
[3] x. J.P. BEAL et alii, New Commentary…, 1382.
Trong trường hợp ngăn trở còn kín đáo thì một bên biết có ngăn trở bên tỏ bày sự ưng thuận trước vị chứng hôn là đủ, không cần có hai nhân chứng. Bên không biết có ngăn trở, không buộc lập lại ưng thuận, có thể hiện diện hoặc không.
[4] Ví dụ, một hôn nhân do ngăn trở chỉ có kết hôn dân sự, thì cuộc sống chung của hai vợ chồng không đơn thuần là việc sống dâm dục với nhau. Đức Gioan Phaolô II (x. Tông huấn Familiaris Consortio, 82) nói không chỉ là chuyện họ sống dâm dục nhưng họ cũng có những ràng buộc vợ chồng, khi họ đi tìm sự công nhận vợ chồng từ chính quyền hay xã hội.
[5] Người lương đã sống đời vợ chồng lâu năm và đã có con cái thì họ không hiểu và cũng không chấp nhận cử hành một kết hôn nữa, như ý kiến: “Tôi với bà ấy đã kết hôn từ lâu và đã có con cái, không có lý do gì mà tôi phải kết hôn lại lần nữa”.
[6] Trừ khi việc cử hành thể thức kết hôn bị trở ngại nghiêm trọng, chỉ còn cách xin Tòa Thánh điều trị tại căn.