RỐI LOẠN NHÂN CÁCH ÁM ẢNH CƯỠNG CHẾ (OBSESSIVE-COMPULSIVE)
2022-11-13T09:40:16-05:00
2022-11-13T09:40:16-05:00
https://giaoluatconggiao.com/an-ly-hoc-3/roi-loan-nhan-cach-am-anh-cuong-che-obsessive-compulsive-279.html
/themes/default/images/no_image.gif
GIÁO LUẬT CÔNG GIÁO
https://giaoluatconggiao.com/uploads/logo.png
Chủ nhật - 13/11/2022 09:30
Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế (obsessive-compulsive personality disorder)
J.B. Lê Ngọc Dũng
1. Bệnh lý
Những nét đặc trưng cho cá nhân rối loạn nhân cách cưỡng chế (obsessive-compulsive personality disorder): bận tâm với trật tự, cầu toàn, và kiểm soát liên vị; với sự linh hoạt, cởi mở và hiệu quả. Rối loạn này bắt đầu từ đầu tuổi trưởng thành và hiện diện trong nhiều bối cảnh, như được chỉ ra bởi bốn (hoặc nhiều hơn) các đặc điểm như sau:[1]
1) Quá quan tâm với các chi tiết, quy tắc, danh sách, trật tự, tổ chức hoặc lịch trình
Họ có nỗ lực duy trì một cảm giác kiểm soát tỉ mỉ đến các quy tắc, chi tiết tầm thường, thủ tục... đến mức đánh mất điểm chính của hoạt động.
2) Quá cầu toàn khiến cản trở việc hoàn thành nhiệm vụ
Họ quá cẩn thận, đặc biệt chú ý đến chi tiết và liên tục kiểm tra các lỗi có thể xảy ra. Ví dụ, họ sẽ dành một lượng thời gian không đáng có để tìm kiếm danh sách mà nghi là có sai lỗi. Họ quan trọng hóa những chi tiết hoàn hảo cho một dự án đến nỗi dự án bị chậm lại hay không thể hoàn thành.
3) Dành quá nhiều cho công việc và năng suất đến nỗi loại trừ các hoạt động giải trí và tình bạn (trừ trường hợp phải hy sinh vì gánh nặng kinh tế)
Họ thường cảm thấy rằng họ không có thời gian để có một buổi tối hoặc ngày cuối tuần để nghĩ ngơi hay thư giãn. Họ có thể tiếp tục hoãn một hoạt động vui thú, chẳng hạn như một kỳ nghỉ, để họ không "lãng phí thời gian".
4) Quá cẩn thận và không linh hoạt về các vấn đề đạo đức hoặc giá trị
Họ giữ và buộc người khác tuân theo các nguyên tắc đạo đức cứng nhắc và nghiêm ngặt. Đối với họ, không có quy tắc linh động cho các tình huống giảm nhẹ.
5) Không thể loại bỏ các vật cũ hoặc vô giá trị
Họ coi việc vứt bỏ đồ vật cũ, hư hỏng là lãng phí và sẽ buồn bã nếu ai đó cố gắng loại bỏ những thứ họ đã lưu, ngay cả khi chúng không có giá trị tinh thần hay tình cảm.
6) Khó cùng làm việc hoặc hoàn thành công việc chung với người khác nếu người này không tuân thủ các cách làm của mình
Họ luôn nhấn mạnh rằng tất cả mọi thứ được thực hiện theo cách của họ khi làm việc chung, nhiều khi theo từng chi tiết. Họ rất ngạc nhiên và khó chịu nếu người khác đề nghị lựa chọn thay thế sáng tạo. Họ có thể từ chối lời đề nghị giúp đỡ vì họ tin rằng không ai khác có thể làm điều đó đúng.
7) Hà tiện dùng tiền; tiền là để phòng thân cho những bất trắc trong tương lai
Họ sống nghèo khổ và keo kiệt hơn hơn mức bình thường mà họ có thể chi trả, vì tin rằng chi tiêu phải được kiểm soát chặt chẽ để cung cấp cho những điều bất trắc tương lai.
8) Thể hiện sự cứng nhắc và bướng bỉnh
Họ lên kế hoạch trước một cách chi tiết tỉ mỉ và khó mà thay đổi. Kế hoạch hay chương trình hoàn toàn gói gọn trong quan điểm riêng của họ, không đón nhận ý kiến người khác. Bạn bè và đồng nghiệp có thể đi đến thất vọng bởi độ cứng nhắc này.
2. Hỗ trợ chẩn đoán
Cá nhân có rối loạn nhân cách cưỡng chế ám ảnh có thể có những đặc điểm như sau: [2]
- Gặp khó khăn khi quyết định điều gì là ưu tiên hay cách nào là tốt nhất để thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể mà họ chưa bao giờ làm;
- Có xu hướng để trở nên buồn bã hay giận dữ trong những tình huống mà họ không thể duy trì quyền kiểm soát;
- Cá nhân có rối loạn này thường thể hiện tình cảm một cách kiểm soát chặt chẽ hoặc cứng nhắc;
- Cẩn thận giữ mình lại cho đến khi họ chắc chắn rằng bất cứ điều gì họ nói sẽ hoàn hảo;
- Luôn bận rộn với những lý luận hợp lý trước một sự việc, gặp khó khăn trong việc thể hiện cảm xúc dịu dàng;
- Có thể gặp khó khăn nghề nghiệp và đau khổ, đặc biệt là khi phải đối mặt với những tình huống mới mà đòi hỏi sự linh hoạt và thỏa hiệp.
Tỷ lệ
Rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế là một trong những tính cách phổ biến nhất trong dân số nói chung, với tỷ lệ ước tính dao động từ 2,1% đến 7,9%.[3]
3. Vụ án về rối loạn nhân cách cưỡng chế ám ảnh (compulsive)
Vụ án được xử tại Tòa án Tổng Giáo phận Hartford (1982), Hoa Kỳ. Tòa đã xác nhận hôn nhân vô hiệu do bị đơn, cô Priscilla Swan bị rối loạn nhân cách cưỡng chế ám ảnh (compulsive).
Anh Harold Woodstock và cô Priscilla Swan, cả hai đều theo đạo Công giáo, đã kết hôn ở Hartford vào năm 1978. Harold lúc đó 25 tuổi; Priscilla 24 tuổi.
Họ sống chung với nhau trong khoảng ba năm nhưng cãi nhau thường xuyên và không có con. Cuối cùng họ đã ly thân năm 1981 và ly dị năm 1982.
Anh Harold đã đệ đơn xin Toà án tuyên bố kết hôn là vô hiệu.
Trong phần pháp lý, thẩm phán đã nêu ra 3 điều cần thiết nơi một người để kết hôn thành sự:
1. Tự biết mình (self revelation) có nghĩa là trước hết một người phải có được một bản sắc cơ bản; được hiểu là, anh ta phải xem mình là một người khá kiên định, có một mức độ tôn trọng hợp lý đối với bản thân và truyền đạt sự hiểu biết về bản thân mình cho người phối ngẫu.
2. Hiểu biết (understanding) có nghĩa là anh ta phải xem người phối ngẫu của mình như một người riêng biệt, và tôn trọng cách cảm nhận và suy nghĩ của cô ấy, mà không bóp méo nó quá mức bởi thái độ, nhu cầu hoặc sự bất an của chính anh ta.
3. Chăm sóc (caring) có nghĩa là một người, với sự trưởng thành hợp lý, cam kết sống hiệp thông trọn đời với người phối ngẫu của mình, không phải vì anh ta muốn chiếm hữu, mà vì sự tôn trọng và tình cảm đặc biệt mà anh ta dành cho cô ấy, và vì anh ta muốn chia sẻ cuộc sống của anh với người nữ đó.
Ở phần luận chứng, các thẩm phán đã luận xét những điểm sau:
- Anh Harold Woodstock đã gửi một bản tường trình hôn nhân đến tòa án, vào tháng 2 năm 1982. Nói chung, anh nói tốt về mình và buộc tội vợ. Anh ta cho rằng vợ rất lạnh lùng và vì thế cuộc hôn nhân đã không thực sự được hoàn hợp. Ngược lại, anh mô tả mình như là "thông minh, siêng năng, tận tâm, tình cảm, cởi mở, trung thực và có kỷ luật."
- Harold nói rằng người phụ nữ mới được Chúa định là "người thay thế" vợ mình là Priscilla. Lý do anh đưa ra là vì anh và phụ nữ mới kia đều thích cùng một loại thực phẩm, đều lái cùng một chiếc xe mô hình và cả hai đều đến từ New England. Vì vậy, rõ ràng rằng Harold Woodstock có vấn đề về tình cảm.
- Harold là con lớn nhất trong số sáu anh em và được cha mẹ bảo vệ quá mức, nghiêm khắc. Harold không được phép hẹn hò khi anh ta còn là một học sinh trung học. Tuy nhiên, từ khi anh học đại học, anh đã trở thành một người đàn ông của phụ nữ. Trong năm năm từ mười chín đến hai mươi bốn tuổi, Harold nói rằng anh ta hẹn hò với hai trăm cô gái và có quan hệ tình dục với mười hai hoặc mười ba trong số họ.
Harold và Priscilla gặp nhau năm 1977, tại một hồ bơi và ngay sau đó bắt đầu quan hệ tình dục hàng ngày. Priscilla trở nên gắn bó tình cảm và yêu Harold điên cuồng. Cô gây áp lực buộc Harold phải kết hôn, nhưng Harold lại cảm thấy rằng anh ta có thể chia tay với cô bất cứ lúc nào. Trong vòng bốn tháng gặp gỡ, họ đã đính hôn.
- Harold rõ ràng không chắc chắn rằng Priscilla là bạn tình lý tưởng đối với anh ta, mặc dù thực tế là họ có quan hệ tình dục hàng ngày.
- Sau khi kết hôn, cặp đôi tiếp tục quan hệ tình dục hàng ngày trong một thời gian nhưng đến cuối năm 1979 họ chỉ quan hệ một vài lần trong tháng và vì Priscilla chỉ quan hệ tình dục nửa vời trong suốt ba năm kết hôn, Harold cho rằng cuộc hôn nhân không phải là thực sự hoàn hợp.
- Priscilla chắc chắn có vấn đề của riêng mình trước đây, khi chưa đến với Harold. Cô đã cố tự tử khi cô hai mươi mốt tuổi trong một mối tình lãng mạn tan vỡ, và cô nóng tính và cầu toàn.
- Harold đối xử với Priscilla như một vật hoặc một cỗ máy tình dục, vì rõ ràng anh ta xem tất cả phụ nữ (anh ta thực sự gọi người bạn gái hiện tại của mình là "người thay thế" cho Priscilla, như thể chiếc máy cũ đã được thay thế bằng cái mới).
- Khi Priscilla thấy tình dục đau đớn hay khó chịu, Harold hoàn toàn không biết gì về cảm xúc của cô. Trong khi đó, cô làm nhục anh ấy ở nơi công cộng và ném cơn giận dữ khi thấy mọi thứ đã không tuyệt đối đúng trật tự.
- Bác sĩ Linotte, đã chẩn đoán Harold mắc chứng rối loạn nhân cách cưỡng chế nghiêm trọng với những đặc điểm xã hội học và phẩm chất tàn bạo tinh vi, tinh tế nhưng mạnh mẽ. Priscilla, theo bác sĩ Linotte, mắc chứng rối loạn nhân cách hỗn hợp ít nghiêm trọng hơn, kết hợp những đặc điểm của rối loạn nhân cách cưỡng chế và cuồng loạn (hysterical).
Các thẩm phán đã kết luận rằng anh Harold Woodstock thiếu khả năng duy trì một cuộc hôn nhân trọn đời, vì anh ta thiếu khả năng tự biết mình (self revelation) (người đàn ông gần như không hiểu gì về các vấn đề của chính mình), hiểu biết (anh ta luôn đối xử với Priscilla không phải là một người mà là một sự vật) và quan tâm (cách tiếp cận cơ bản của anh ta là một trong những thống khổ thù địch hơn là "tình yêu hôn nhân").
4. Vụ án về rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế 2
Vụ án được xử tại tòa án Giáo phận Worcester (1966), Hoa Kỳ. Tòa đã xác nhận hôn nhân vô hiệu do bị đơn, cô Joan Dunn, nữ tính khí hung hăng, thất thường, đã thiếu nghiêm trọng sự phán đoán khi kết hôn. [5]
Anh Ronald Ward, một người Công giáo, đã đệ đơn lên tòa án của Worcester xin tuyên bố hôn nhân với cô Joan Dunn là vô hiệu với lý do cô bị bệnh tâm thần tại thời điểm kết hôn. Anh kết hôn với Joan năm 1959. Trong thời gian tán tỉnh, anh đã phát hiện ra rằng cô ấy rất dễ có cảm xúc mạnh, không thể đoán trước, gây gổ với các thành viên của gia đình và tìm kiếm sự chú ý về mình. Hai người có mâu thuẫn và hoãn ngày kết hôn nhiều lần. Cô có vấn đề về y tế và tâm thần, được đưa vào sáu bệnh viện tính đến thời điểm ly hôn vào năm 1962.
Các thẩm phán xử vụ này chú ý đến ba dữ kiện xảy ra nơi bị đơn: 1- vào thời gian niên thiếu, trước hôn nhân; 2- vào thời gian tán tỉnh và tuần trăng mật và; 3- liên quan đến việc sống hôn nhân của cặp đôi.
Khi cô Joan khoảng mười lăm tuổi, cuộc hôn nhân của cha mẹ cô đã bị phá vỡ bởi sự không chung thủy của cha cô. Trước đó, ông là một người cha nghiêm khắc và đặc biệt khó tính với Joan. Joan là một cô gái và học sinh trung bình, nhưng hay nóng nảy. Vì thiếu vắng cha, cô Joan, với phẩm cách là người lớn tuổi, được trao quyền trong gia đình so với những đứa trẻ khác và đóng vai trò là ông chủ, nhưng cô đã hành động trong khả năng này quá mức.
Cô ấy muốn chứng minh với cha mình rằng cô ấy cũng tốt như những người khác và cha cô coi thường cô. Cô ấy cãi nhau với anh chị em và với mẹ cô. Cô thường dậm chân vào phòng, la hét, v.v. Ngoài những hành động này, cô đã trải qua một số khó khăn vào thời kỳ kinh nguyệt và hay la hét, đã khám bác sĩ nhiều lần.
Ở trường học cô liên tục chọc ghẹo những cô gái trẻ hơn mình và cố gắng trở thành trung tâm của sự hấp dẫn. Cô ấy cũng gây hấn mẹ, dường như mọi lúc. Cô có thể duyên dáng và ngọt ngào vào buổi sáng và một con gấu trong cùng một buổi chiều. Một ngày nọ, cô ấy rút dao đâm anh của mình. Cô ấy dường như không thực sự tin tưởng bất cứ ai. Cô luôn muốn đánh bại người khác dù đó là gì, thậm chí là điều hành một bữa tiệc.
Tóm lại, bị đơn được các nhân chứng mô tả cho thấy rằng về cơ bản, là một người bướng bỉnh, tự cao tự đại, có mối quan hệ bạn bè hời hợt đã sớm chấm dứt vì bản chất tranh luận của cô. Cô ấy có thể được mô tả như một thiên thần ở đường phố và đồng thời là một con quỷ ở nhà.
Đến giai đoạn thứ hai của bằng chứng, cô dành nhiều tâm huyết hơn cho dáng vẻ bên ngoài cá nhân của mình và say mê với cuộc thi sắc đẹp. Anh trai và em gái nói rằng cô Joan sống vượt quá khả năng của mình và ngông cuồng và luôn mắc nợ.
Cô dường như không có bạn gái thực sự; dường như có thể dễ dàng tấn công một người quen nhưng không thể giữ bất kỳ mối quan hệ ổn định nào. Trước khi cưới anh Ward, cô đã dính líu với ít nhất ba người đàn ông. Cô đã quan hệ với một người đàn ông đã có vợ và đã đến với một người đàn ông đã có vợ khác. Năm 1957, cô đính hôn với ông thứ ba nhưng đã chấm dứt bằng những cuộc tranh cãi.
Nguyên đơn, anh Ward, vào thời điểm mới quen biết cô đã phát hiện ra rằng cô ấy liên tục cãi nhau với mẹ. Sau này, anh Ward vì thấy cô quá phi thực tế và vô ơn với mẹ, đã cố gắng để sửa chữa cô nhưng không thành công. Hơn nữa, anh nói rằng cô luôn mâu thuẫn với chị gái và anh trai. Anh cũng thấy mình cãi nhau thường xuyên với cô, đặc biệt là về sự thiếu quyết đoán của cô về cuộc hôn nhân mà cô cứ trì hoãn hoặc thay đổi.
Anh cũng nhận thấy rằng, trong thời kỳ kinh nguyệt của mình, cô đặc biệt không đồng ý, la hét và la hét và đòi hỏi sự chú ý về mình quá mức. Ngay cả những lúc khác, anh nói, cô luôn khao khát trở thành trung tâm của sự hấp dẫn, luôn độc quyền trò chuyện khi ở trong một nhóm. Cô chi rất nhiều tiền cho ngoại hình cá nhân và mua nhiều quần áo đắt tiền. Vì vậy, vào thời điểm kết hôn, cô ấy nợ khoảng một ngàn đô la. Như anh mô tả về cô: sự quan tâm lớn của cô là bản thân và quần áo. Cô quan tâm đến việc giữ cho mình xinh đẹp và nhận được nhiều sự chú ý. Trang phục và trang điểm của cô là vô cùng quan trọng với cô. Cô thích ở bên người khác để được chú ý.
Cô ta không thể giữ mối quan hệ bạn bè với những người phụ nữ khác và ghen tị và nghi ngờ mọi người trong gia đình cô ta, đặc biệt là người mà mẹ hoặc cha cô ta quan tâm.
Vào đêm đầu tiên của tuần trăng mật, cô uống quá nhiều, rồi cô khăng khăng muốn đi bơi nửa đêm mặc cho anh mệt mỏi. Cô đã đi với một cặp vợ chồng khác và sau đó, họ đến phòng nói với chồng cô rằng vợ anh ta "say rượu”.
Anh Ward đã làm chứng rằng cô phàn nàn rằng mình cô đơn, muốn anh chuyển đến Loweii để cô có thể gần gũi với mẹ hơn và trở nên thù địch khi anh từ chối. Trong ba tháng đầu của cuộc hôn nhân của họ, anh nói rằng cô ngồi và nhìn chằm chằm trong nhiều giờ và tình trạng trở nên tồi tệ hơn. Cô bày tỏ với anh sự thật rằng cô đang lo lắng và sợ hãi, nhưng cô không biết mình sợ gì.
Các nhân chứng cho rằng cô ấy đã bận tâm với những vụ sảy thai. Vào một số dịp, cô ấy đi vào phòng tắm và nói rằng cô ấy vừa bị sẩy thai (một cách hoang tưởng). Vào thời đầu hôn nhân, cô bắt đầu cáo buộc ông Ward lạm dụng thể xác. Cô kêu gọi mẹ đến và giải cứu cô.
Cô đã buộc tội chồng mình uống rất nhiều, đánh đập cô, đốt cô bằng thuốc lá, trói cô lại và nói về việc hủy bỏ, nhưng anh ta phủ nhận cáo buộc của cô. Rõ ràng, vào thời điểm này, Cha sở Ash cảm thấy rằng một số điều bất thường nơi cô và đã khuyến cáo cô nên đi khám bác sĩ tâm thần.
Các hồ sơ đưa ra các chẩn đoán khác nhau về tình trạng của cô. Cô được mô tả đầu tiên là có một phản ứng trầm cảm của người Viking; sau đó là một tính cách không ổn định về mặt cảm xúc với sự chán nản liên quan; phản ứng tâm thần phân liệt, loại tâm thần phân liệt với các đặc điểm cuồng loạn.
Tiến sĩ Lebeaux, một chuyên gia của tòa án của Worcester bổ nhiệm, cho rằng bị cáo là một phụ nữ trẻ chưa trưởng thành, tự cho mình là trung tâm, bất an, tìm kiếm sự chú ý với cách trang điểm. Ông đã làm chứng rằng bị cáo là một người không có đủ sức khỏe tâm trí để thực hiện một kết ước hôn nhân hữu hiệu. Những hành vi bất thường của cô ta lúc bắt đầu và ngay sau khi kết hôn trong tuần trăng mật xác nhận rằng cô ta không có khả năng kết hôn.
Tòa án, không thể kết luận rằng bị cáo đã và là một người bị bệnh tâm thần. Tuy nhiên sẽ là một sai lầm và thậm chí là một sự bất công khi xem xét rằng chỉ có người bị coi là tâm thần hoàn toàn thì mới được coi là không có khả năng kết hôn. Rõ ràng là các bệnh tâm thần khác, bất kể chúng có thể được gọi là gì, có thể làm mất khả năng kết hôn hữu hiệu của một người.
Từ những năm đầu của mình, cô Joan là một đứa trẻ có vấn đề, thù địch, hung hăng, tự làm trung tâm và cái tôi. Cô ấy dễ dàng trở nên cuồng loạn, không có khả năng kết bạn, có mối quan hệ cá nhân với tất cả mọi người từ những người gần và thân yêu với cô ấy cho đến những người quen biết bình thường. tòa án, do đó, đã quyết định rằng, cũng như Tiến sĩ Lebeaux, không thể coi cô gái này là một người có đủ sức khỏe tâm thần để kết ước hôn nhân hữu hiệu.
x. L.G. WRENN, Decisions, Washington DC 1983, 90-94.
x. ADAM J. MAIDA, The Tribunal Reporter. A Comprehensive study of the grounds for the annulment of mariage in the Catholic Church, Vol 1, Huntington, Indiana 1970, 347-355.